Được mệnh danh là "Diego Maradona của xứ Carpathians", Hagi là một trong những tiền vệ tấn công xuất sắc nhất châu Âu ở thập niên 80, 90 của thế kỷ trước và được thừa nhận là danh thủ bóng đá số 1 mọi thời đại của Romania.
Tiểu sử ngắn gọn của Gheorghe Hagi
Gheorghe Hagi (sinh 5 tháng 2 năm 1965 tại Săcele, Constanţa) là một cựu danh thủ bóng đá người Romania. Anh nổi tiếng với kĩ tốc độ, kĩ thuật cá nhân điêu luyện và những cú sút xa rất chính xác.
Anh có biệt danh là "Maradona của xứ Carpathians", và người hùng của đất nước anh cũng như đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã 6 lần được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất năm tại Romania, đó là một kỉ lục. Và gần đây anh được bầu là cầu thủ vĩ đại nhất của Romania thế kỷ 20. Anh chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia Romania ở 3 kỳ World Cup 1990, 1994, 1998 cùng với 3 kỳ Euro 1984, 1986, 2000. Anh có 125 lần khoác áo đội tuyển quốc gia, xếp thứ 2 sau Dorinel Munteanu. Anh là người ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển Romania với 35 bàn thắng. Tháng 11 năm 2003 nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thành lập UEFA, liên đoàn bóng đá Romania đã bầu anh là cầu thủ vàng của Romania 50 năm qua. Anh là một trong số ít cầu thủ chơi cho cả 2 câu lạc bộ kình địch của Tây Ban Nha là Real Madrid và FC Barcelona.
Sự nghiệp thi đấu của Gheorghe Hagi
Anh bắt đầu sự nghiệp đá bóng của mình ở đội trẻ của Farul Constanţa vào thập niên 1970 trước khi được RFF chọn vào chơi ở Luceafărul Bucureşti năm 1980 trong 2 năm. Năm 1982, anh trở lại Constanţa khi 18 tuổi và bắt đầu sự nghiệp thi đấu đỉnh cao. Anh gửi đơn vào Universitatea Craiova nhưng sau đó lại chọn Sportul Studenţesc ở Bucharest.
Mùa đông năm 1987, Hagi chuyển tới Steaua Bucureşti, một câu lạc bộ lớn ở Romania và chuẩn bị cho trận tranh siêu cup Châu Âu với FC Dynamo Kyiv. Theo hợp đồng thì anh chỉ phải chơi duy nhất một trận ở đây. Dù trong trận chung kết anh chỉ ghi được 1 bàn nhưng Steaua cũng không muốn anh quay lại Sportul Studenţesc nữa và họ quyết giữ anh lại. Trong những năm ở Steaua 1987-1990 anh đã chơi tất cả 97 trận và ghi được 76 bàn thắng. Anh cùng với CLB của mình lọt vào bán kết cúp UEFA năm 1988 và lọt vào chung kết cúp này vào năm 1989. Anh đoạt chức vô địch Romania, và cúp Romania 3 năm liên tiếp 1987, 1988, 1989.
Sau World cup 1990, anh chuyển tới Real Madrid với mức chuyển nhượng là 4,3 triệu dollar. Anh chơi ở Real Madrid 2 mùa bóng sau đó bị bán sang Brescia Calcio. Hagi đã giúp Brescia Calcio đoạt cúp vô địch Serie B và được lên chơi ở Serie A, nhưng CLB này lại bị rớt xuống Serie B mùa giải sau đó và Hagi đã chuyển sang chơi cho Barcelona.
Sau 2 mùa bóng chơi cho Barcelona, anh lại chuyển sang chơi cho Galatasaray S.K. Hagi không đạt được cúp vô địch Tây Ban Nha nào cả với Real Madrid cũng như với Barcelona. Tuy nhiên ở Galatasaray anh chơi rất thành công với sự ủng hộ lớn của người dân Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã cùng Galatasaray đoạt cúp UEFA năm 2000 sau khi chiến thắng Arsenal ở trận chung kết. Sau đó, anh lại đoạt siêu cúp Châu Âu sau khi thắng CLB cũ của mình, Real Madrid.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Hagi xuất hiện ở đội tuyển quốc gia năm 1983 khi anh 18 tuổi trong trận gặp Na Uy tại Oslo. Anh là một thành viên quan trọng của đội tuyển cho đến năm 2000. Hagi là cầu thủ xuất sắc nhất của Romania tại World Cup 1994, tại giải đó đội tuyển của anh đã lọt được vào trận tứ kết, sau đó bị thua Thụy Điển trên chấm 11m. Tại giải đó, anh đã ghi được 3 bàn trong đó có bàn vào lưới đội Colombia là một trong những bàn đẹp nhất qua các kỳ WC. Bàn thắng đó anh lốc bóng từ khoảng cách 40 mét, bóng đi theo hình vòng cung qua đầu thủ môn, một cú sút mà người ta vẫn gọi là "lá vàng rơi". Bốn năm sau, sau WC 1998 anh đã quyết đinh rời đội tuyển quốc gia, nhưng sau đó lại thay đổi quyết định và cùng đội tuyển tham dụ Euro 2000. Anh giải nghệ năm 2001 ở tuổi 36.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Năm 2001, Hagi được mời làm huấn luyện viên đội tuyển Romania thay cho Ladislau Bölöni, người đã chuyển sang huấn luyện cho câu lạc bộ Sporting của Bồ Đào Nha. Tuy nhiên sau khi thất bại ở World Cup 2002, Hagi bị sa thải. Thành tích đáng kể trong 6 tháng huấn luyện cho đội tuyển Romania là chiến thắng Hungary trên sân vận động ở Budapest, thủ đô của Hungary.
Năm 2003, anh đến Thổ Nhĩ Kỳ làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ Bursaspor nhưng lại ra đi ngay sau mùa giải đó bởi lại gây thất vọng. Sau đó, anh trở thành huấn luyện viên của Galatasaray vào năm 2004 và dẫn dắt họ đoạt cúp Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2005.
Mùa hè năm 2005, câu lạc bộ lớn nhất Romania, Steaua Bucureşti, muốn mời anh làm huấn luyện viên nhưng yêu cầu về tiền lương của Hagi không được chấp nhận nên anh đã sang làm việc tại câu lạc bộ Politehnica Timişoara, nhưng anh lại rời câu lạc bộ đó sau vài tháng vì thành tích không khả quan. Sân vận động chính của Constanţa đã được mang tên anh nhưng lại bị thay đổi sau khi Hagi đến với Politehnica Timişoara.
Từ tháng 7 năm 2007 đến ngày 20 tháng 9 năm 2007, Hagi huấn luyện cho Steaua Bucureşti. Nhưng cá tính mạnh của Hagi đã không làm hài lòng các ông chủ của CLB này và chỉ sau 2 tháng 3 tuần 4 ngày, hợp đồng giữa họ đã bị hủy bỏ.
Danh hiệu
Steaua Bucureşti
Siêu cup châu âu: 1987
Vô địch Rumani: 1987, 1988, 1989
Cup Romani: 1987, 1988, 1989
Real Madrid
Siêu cúp TBN: 1990
Barcelona
Siêu cúp TBN: 1994
Galatasaray
Cup UEFA: 2000
Siêu cup châu âu: 2000
Giải vô địch Thổ Nhĩ Kỳ: 1997, 1998, 1999, 2000
Cup Thổ Nhĩ Kỳ: 1999, 2000
Xem tuyển tập những pha xử lý bóng kỹ thuật của Gheorghe Hagi
Xem thêm: Những bàn thắng đẹp mắt của Frank Rijkaard