Denis Irwin, chiến binh của Quỷ Đỏ |
Trong mùa bóng đầu tiên ở MU, Irwin chơi vị trí hậu vệ cánh phải. Năm 1991, anh được đẩy sang cánh trái để nhường chỗ cho tân binh Paul Parker. Từ đó trở đi, hành lang trái trở thành độc quyền của Irwin. Anh lên xuống nhịp nhàng, thủ tốt mà công cũng hay. Có thể nói Irwin là 1 trong những hậu vệ cánh có khả năng tham gia tấn công tốt nhất ở châu Âu, với tốc độ nhanh, khả năng xoay trở khéo léo, những đường chuyền dài thông minh và các cú tạt bóng đầy nguy hiểm. Thêm vào đó, Irwin cũng thường xuyên thực hiện những cú sút từ xa cực mạnh, trước khi David Beckham “ra ràng”, chính anh là chuyên gia đá phạt của MU. Là hậu vệ, nhưng Irwin ghi được không ít những bàn thắng đẹp, chẳng hạn như bàn thắng từ cú sút xa 25 mét trong trận thắng Coventry 1-0 năm 1993, từ pha sút phạt siêu đẳng trong trận gặp Liverpool cũng năm 1993, hay từ pha lừa bóng điệu nghệ và dứt điểm trong trận gặp Wimbledon tại vòng 5 cúp FA năm 1994.
Không như nhiều cầu thủ khác, phong độ của Denis Irwin lúc nào cũng ổn định, không lên xuống thất thường. Quan trọng hơn, trước những trận đấu lớn, anh lúc nào cũng vẫn điềm tĩnh, ung dung. Cứ lặng lẽ mà tiến bước, Irwin gặt hái cùng MU hết danh hiệu này đến danh hiệu khác, khởi đầu từ cúp C2 và Siêu Cúp châu Âu năm 1991, League Cup năm 1992, cho đến 2 cú đúp các năm 1994 và 1996, cùng với 2 chức VDQG các năm 1993 và 1997.
Một con người lỗi lạc |
Mùa bóng 1998-1999, ở tuổi 33, Irwin càng chứng tỏ mình là chỗ dựa vững vàng cho Quỷ Đỏ. Khi sức ép tăng cao, anh đứng ra đảm nhận những trách nhiệm khó khăn, quyết định nhận trở lại nghĩa vụ thực hiện các quả penalty. Trong 5 trái phạt đền MU được hưởng mùa đó, Irwin đá 4 trái, và lần nào cũng thành công. Sai lầm duy nhất của Irwin trong mùa 98-99 là chiếc thẻ đỏ trong trận bán kết cúp FA, khiến anh không được tham gia trận chung kết gặp Newcastle United. Nhưng chiến thắng huy hòang tại giải VQDG và Champions League dĩ nhiên là quá dư để bù đắp cho niềm nuối tiếc nho nhỏ ấy.
Sau vinh quang 1999, phong độ của Irwin vẫn được duy trì, có điều thể lực sút giảm không cho phép anh thi đấu với mật độ dày đặc như trước. Trong mùa 1999-00, nhiều trận anh không ra sân, nhường vị trí cho hậu vệ trẻ người Pháp Mikael Silvestre. Năm 2000, anh quyết định từ giã đội tuyển quốc gia Ireland để dành sức thi đấu cho United, nhưng cùng với tuổi tác, sự có mặt của anh trên sân cũng thưa hơn, và vai trò chuyên gia đá penalty cũng dần dần được anh trao lại cho Paul Scholes. Irwin lần thứ 500 khóac áo MU trong trận đấu gặp Leicester tại Old Trafford vào đúng ngày lễ Thánh Patrick (Thánh bảo hộ dân tộc Ireland) năm 2001.(*) HLV Alex Ferguson tôn vinh Irwin trong trận đấu ấy bằng cách đặc cách trao cho anh chiếc băng thủ quân vốn thuộc về Roy Keane.
Một đá tảng ở hành lang cánh trái |
Irwin 1 lần nữa đeo băng đội trưởng MU vào ngày 12 tháng 5 năm 2002, trong trận đấu chia tay của anh tại Old Trafford. Ở tuổi 36, anh vẫn chưa muốn nghỉ ngơi, nên chỉ 2 tháng sau đã tiếp tục ký hợp đồng với đội hạng nhất Wolverhampton Wanderers, CLB anh hâm mộ thời còn thơ ấu. Chỉ sau 1 năm, lão tướng Irwin đã góp công lớn đưa Wolverhampton thăng lên ngọai hạng. Thi đấu ở ngọai hạng được 1 mùa, Wolves rớt trở lại hạng nhất. Có lẽ với độ tuổi gần tứ tuần như Irwin thì hạng nhất là nơi thích hợp hơn cho anh.
Ở đội tuyển quốc gia Ireland, với phong độ luôn luôn ổn định, Irwin là lựa chọn số 1 ở vị trí hậu vệ trái trong suốt 10 năm. Sau lần đầu chơi cho Ireland trong trận gặp Morocco năm 1990, anh có tổng cộng 56 lần khóac áo tuyển quốc gia, ghi được 4 bàn thắng, từng tham dự World Cup 1994.
MUSVN