HLV Julen Lopetegui là ai ? tiểu sử HLV Julen Lopetegui
HLV Julen Lopetegui là ai ? cùng tìm hiểu những thông tin tiểu sử cơ bản về huấn luyện viên Julen Lopetegui, thành tích danh hiệu có gì nổi bật
HLV Julen Lopetegui là ai và thông tin cơ bản
- Họ và tên: Julen Lopetegui Argote
- Ngày tháng năm sinh: 28/8/1966
- Nơi sinh: Asteasu, Tây Ban Nha
- Chiều cao: 1,85 m
Julen Lopetegui Agote là cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Anh bắt đầu sự nghiệp là một thủ môn và đã thi đấu 149 trận ở La Liga trong 9 mùa giải, đại diện cho các câu lạc bộ Real Madrid, Logroñés, Barcelona và Rayo Vallecano. Anh cũng đã ra sân 168 lần ở Segunda División cho ba đội khác nhau, khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha một lần và tham gia World Cup 1994.
Lopetegui bắt đầu công việc huấn luyện viên vào năm 2003 và có thời gian dẫn dắt các đội trẻ của Tây Ban Nha, đạt được thành công với các đội dưới 19 tuổi và dưới 21 tuổi khi giành chức vô địch châu Âu.
Anh cũng từng là HLV trưởng của đội tuyển quốc gia cấp cao trong hai năm, nhưng bị sa thải trước World Cup 2018 sau khi thông báo sẽ gia nhập Real Madrid sau giải đấu. Ở mảng câu lạc bộ, Lopetegui đã dẫn dắt Rayo Vallecano, Castilla, Porto, Real Madrid và Sevilla, trong đó giành chức vô địch Europa League 2020 cùng đội Sevilla.
HLV Julen Lopetegui là ai và thông tin cơ bản |
Tiểu sử HLV Julen Lopetegui
Sự nghiệp cầu thủ
Sinh ra tại Asteasu, Gipuzkoa, Lopetegui bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp tại Real Sociedad. Năm 1985, anh nhận lời đề nghị từ Real Madrid, và thi đấu cho đội B khi mới 19 tuổi.
Sau thời gian cho mượn tại UD Las Palmas, Lopetegui trở lại Real Madrid, nhưng không thể vượt qua thủ môn Francisco Buyo. Anh chỉ ra sân một lần ở La Liga trong hai mùa giải, trong trận hòa 3-3 trước Atlético Madrid, khi Real giành chức vô địch. Sau đó, anh ký hợp đồng với CD Logroñés, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì vị thế hàng đầu cho câu lạc bộ Riojan khiêm tốn.
Khi Andoni Zubizarreta rời Valencia CF vào năm 1994, Lopetegui gia nhập FC Barcelona, cạnh tranh để giành vị trí số một với Carles Busquets. Sau khi Barcelona mua Vítor Baía từ FC Porto, anh bị đẩy xuống hạng ba và trở lại Madrid với Rayo Vallecano vào năm 1997.
Anh đá chính trong hai mùa giải đầu tiên tại Rayo, đạt đỉnh cao bằng chiến thắng trong trận chung kết play-off trước CF Extremadura vào tháng 6 năm 1999. Sau khi quay trở lại hạng đấu cao nhất, Lopetegui mất vị trí cho Kasey Keller và sau đó là Imanol Etxeberria. Anh chơi 36 trận đỉnh cao từ 1999 đến 2002 và thậm chí giúp đội lọt vào tứ kết UEFA Cup 2000-01, trước khi bị loại bởi Deportivo Alavés.
Màn trình diễn tại Logroñés giúp Lopetegui có lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha duy nhất, thay Zubizarreta trong trận giao hữu thua 0-2 trước Croatia. Sau đó, anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1994.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Lopetegui bắt đầu sự nghiệp huấn luyện từ năm 2003, làm việc với các đội trẻ của Tây Ban Nha và giành nhiều danh hiệu tại các giải U17 và U21 châu Âu. Anh cũng từng là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha và sau đó làm việc tại các câu lạc bộ như Rayo Vallecano, FC Porto và Sevilla.
Tại Porto, anh dẫn dắt đội vào vòng tứ kết UEFA Champions League và giành chiến thắng trong trận Chung kết UEFA Europa League 2020. Sau đó, Lopetegui trở lại làm huấn luyện viên cho Sevilla và giúp đội đạt vị trí thứ tư để tham dự Champions League.
Lopetegui cũng từng làm huấn luyện viên trưởng cho Real Madrid, nhưng chỉ sau thời gian ngắn và sau chuỗi kết quả không tốt, anh bị sa thải. Sau thời gian tạm nghỉ, anh trở lại làm huấn luyện viên trưởng cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers và dẫn dắt đội đến vị trí thứ 13 ở Premier League.
Vào ngày 9/8/2023 khi mùa giải 2023/2024 sắp khởi tranh Lopetegui bất ngờ đạt thỏa thuân chia tay Wolves vì những vướng mắc trong kỳ chuyển nhượng hè.
Vào ngày 23/5/2024, Lopetegui trở thành là huấn luyện viên trưởng mới của West Ham United, thay thế cho David Moyes mới rời đi ; ông đã ký hợp đồng hai năm với tùy chọn gia hạn thêm năm thứ ba.
Thành tích và danh hiệu đạt được
- Tính tới trận mới đây ngày 10/11/2024
Đội | Thời gian | Trận | Thắng | Hòa | Thua | Win % |
Rayo Vallecano | 2003 | 11 | 2 | 2 | 7 | 18.18 |
Real Madrid B | 2008-2009 | 38 | 18 | 9 | 11 | 47.37 |
Tây Ban Nha U19-U20-U21 | 2010-2014 | 45 | 38 | 3 | 4 | 84.44 |
Porto | 2014-2016 | 78 | 53 | 16 | 9 | 67.95 |
Tây Ban Nha | 2016-2018 | 20 | 14 | 6 | 0 | 70.00 |
Real Madrid | 2018 | 14 | 6 | 2 | 6 | 42.86 |
Sevilla | 2019-2022 | 170 | 90 | 44 | 36 | 52.94 |
Wolves | 2022-2023 | 27 | 10 | 6 | 11 | 37.04 |
West Ham | 2024- | 13 | 4 | 3 | 6 | 30.77 |
Tổng cộng | 416 | 234 | 92 | 90 | 56.25 |
Cầu thủ
Real Madrid
- La Liga: 1989-90
Barcelona
- Siêu Cúp Tây Ban Nha: 1994, 1996
Tây Ban Nha U20
- Á quân Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới: 1985
Huấn luyện viên
Sevilla
- UEFA Europa League: 2019-20
Tây Ban Nha U19
- Giải vô địch U19 châu Âu của UEFA: 2012
Tây Ban Nha U21
- Giải vô địch U21 châu Âu của UEFA: 2013