Tiểu sử câu lạc bộ bóng đá Everton
Everton F.C. / Ɛvərtən / là một câu lạc bộ bóng đá ở vùng Merseyside, Liverpool, Anh, hiện đang thi đấu tại Premier League, một trong những giải đấu hàng đầu của bóng đá quốc gia Anh. Câu lạc bộ đã tham gia vào giải đấu hàng đầu với kỷ lục 116 mùa giải và giành chức vô địch giải vô địch 9 lần, và FA Cup năm lần.
1. Tổng quan
Thành lập năm 1878, Everton là thành viên sáng lập của The Football League năm 1888 và đã giành chức vô địch giải vô địch đầu tiên của họ hai mùa sau đó. Sau 4 lần vô địch giải Ngoại hạng và hai trận thắng FA Cup, Everton đã trải qua giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai ngay sau khi hồi phục những năm 1960, khi mà câu lạc bộ giành hai chức vô địch giải đấu và một FA Cup. Giữa những năm 1980 là thời kỳ thành công bền vững gần đây nhất của họ, với hai Giải vô địch Liên đoàn, FA Cup, và Cúp Châu Âu năm 1985. Cúp FA gần đây nhất của câu lạc bộ là FA Cup năm 1995.
Những người ủng hộ của câu lạc bộ được biết đến với cái tên Everton. Everton có một sự ganh đua quyết liệt với hàng xóm của mình là Liverpool, và cả hai bên đều thi đấu trận Merseyside. Câu lạc bộ này đã được đặt tại Goodison Park ở Walton, Liverpool, từ năm 1892, sau khi chuyển từ Anfield sang một hàng trong số tiền thuê. Màu sắc nhà của câu lạc bộ là áo sơ mi màu xanh hoàng gia với quần short trắng và vớ.
2. Lịch sử
Everton được thành lập dưới cái tên St Domingo FC vào năm 1878 để các thành viên của nhà thờ St Domingo Methodist New Connexion Chapel ở Breckfield Road North, Everton có thể chơi môn cricket chơi môn thể thao năm này vào mùa hè. Ở trận đấu đầu tiên, câu lạc bộ đã giành chiến thắng 1-0 trước Everton Church Club. Câu lạc bộ được đổi tên thành Everton vào tháng 11 năm 1879 khi những người bên ngoài hội muốn tham gia.
Câu lạc bộ là thành viên sáng lập của Liên đoàn Bóng đá năm 1888-89 và đã giành chức vô địch giải vô địch đầu tiên trong mùa giải 1890-1991. Everton đã giành cúp FA lần đầu tiên vào năm 1906 và League Championship một lần nữa vào năm 1914-15. Sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất vào năm 1914 đã làm gián đoạn chương trình bóng đá trong khi Everton là vô địch, đó là điều mà sẽ lại xảy ra vào năm 1939.
Mãi cho đến năm 1927, thời kỳ thành công đầu tiên của Everton bắt đầu. Năm 1925, câu lạc bộ đã ký Dixie Dean từ Tranmere Rovers. Trong những năm 1927-1928, Dean lập kỷ lục ghi bàn cho các mục tiêu của giải đấu hàng đầu trong một mùa giải với 60 bàn thắng trong 39 trận đấu, đó là một kỷ lục vẫn còn. Anh đã giúp Everton giành chức vô địch giải Ngoại hạng Thứ 3 trong mùa giải đó. Tuy nhiên, Everton đã được chuyển tới Sư đoàn 2 năm sau đó trong lúc hỗn loạn nội bộ tại câu lạc bộ. Câu lạc bộ nhanh chóng hồi phục và đã được thăng cấp lần đầu tiên, trong khi ghi được một số kỷ lục của các bàn thắng trong Sư đoàn thứ hai. Trở lại chuyến bay hàng đầu năm 1931-32, Everton đã không còn thời gian để khẳng định lại vị trí của họ và giành chức vô địch giải vô địch League thứ tư ngay từ cơ hội đầu tiên. Everton cũng giành chức vô địch FA Cup lần thứ hai vào năm 1933 với chiến thắng 3-0 trước Manchester City trong trận chung kết. Kỷ nguyên kết thúc vào năm 1938-39 với giải vô địch League thứ năm.
Sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai lại chứng kiến sự đình trệ của giải đấu, và khi cuộc thi chính thức bắt đầu vào năm 1946, đội Everton đã bị chia rẽ và đánh bại so với đội trước chiến tranh. Everton đã xuống hạng lần thứ hai vào năm 1950-51 và đã không được thăng chức cho đến năm 1953-54, khi họ kết thúc như là người chạy bộ trong mùa thứ ba của họ ở Sư đoàn thứ hai. Câu lạc bộ đã có mặt trên thị trường kể từ đó.
3. Thành tích
Giải vô địch quốc gia: 9 lần (1891, 1915, 1928, 1932, 1939, 1963, 1970, 1985, 1987)
Cúp FA: 5 lần (1906, 1933, 1966, 1984, 1995)
Cúp Liên đoàn Anh: 0
Á quân: 1977, 1984
Siêu cúp bóng đá Anh: 9 lần (1928, 1932, 1963, 1970, 1984, 1985, 1986*, 1987, 1995 (* đồng đoạt cúp))
UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1 lần (1985)
4. Cầu thủ
4.1. Đội hình hiện tại
Tính đến 9 tháng 8 năm 2019.
Số | VT | Quốc gia | Cầu thủ |
1 | TM | Anh | Jordan Pickford (đội phó) |
2 | HV | Anh | James Tarkowski |
3 | HV | Scotland | Nathan Patterson |
4 | HV | Anh | Mason Holgate |
5 | HV | Anh | Michael Keane |
7 | TĐ | Anh | Dwight McNeil |
8 | TV | Bỉ | Amadou Onana |
9 | TĐ | Anh | Dominic Calvert-Lewin |
11 | TĐ | Anh | Demarai Gray |
16 | TV | Mali | Abdoulaye Doucouré |
17 | TV | Nigeria | Alex Iwobi |
19 | HV | Ukraina | Vitalii Mykolenko |
20 | TĐ | Pháp | Neal Maupay |
22 | HV | Anh | Ben Godfrey |
23 | HV | Cộng hòa Ireland | Séamus Coleman (đội trưởng) |
27 | TV | Sénégal | Idrissa Gueye |
31 | TM | Anh | Andy Lonergan |
37 | TV | Anh | James Garner |
— | HV | Anh | Ashley Young |
— | TM | Bồ Đào Nha | João Virgínia |
— | TV | Bồ Đào Nha | Andre Gomes |
— | HV | Anh | Jarrad Branthwaite |
— | TV | Anh | Dele Ali |
— | TĐ | Ireland | Thomas Cannon |
— | TV | Bờ Biển Ngà | Jean-Philippe Gbamin |