Tiểu sử câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An - SLNA FC
Đội bóng đá Sông Lam là một đội bóng có truyền thống và thành tích tốt nhất so với các đội bóng đá Miền Trung khác tham gia thi đấu ở V.League, đội cũng đóng góp rất nhiều cầu thủ giỏi cho đội tuyển QG VN
- Lịch sử câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
- Tiền thân
- Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh (1979–1992)
- Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An (1992–1994)
- Đoàn bóng đá Sông Lam Nghệ An (1994–2004)
- Câu lạc bộ bóng đá PJICO Sông Lam Nghệ An (2004–2007)
- Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An (2007–2009)
- Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An (2009–nay)
- Trang phục thi đấu của SLNA FC
- Kình địch của CLB Sông Lam Nghệ An
- Hà Nội FC
- Hoàng Anh Gia Lai
- Thanh Hóa (derby Bắc Trung Bộ)
- Câu lạc bộ bóng đá Hồng Lĩnh Hà Tĩnh
- Đội hình câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
- Thành tích thi đấu
- Vô địch Quốc gia
- Cúp Quốc gia
- Đấu trường châu lục
- Danh hiệu chính thức
- Đội một
- U-21
- U-19
- U-17
- U-15
- U-13 (đội thiếu niên)
- U-11 (đội nhi đồng)
- U-9
Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An (tiếng Anh: Song Lam Nghe An Football Club) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam, có trụ sở ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đây là câu lạc bộ đã đoạt rất nhiều danh hiệu từ Vô địch Quốc gia, Cúp Quốc gia cũng như các giải trẻ và là một trong những câu lạc bộ đóng góp cầu thủ cho đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam nhiều nhất. Từ trước đến nay, Sông Lam Nghệ An có truyền thống chỉ sử dụng nội binh là các cầu thủ từ chính lò đào tạo của câu lạc bộ. Gần như tất cả các cầu thủ này đều có quê ở Nghệ An hoặc Hà Tĩnh, vì vậy có thể xem đây là câu lạc bộ giàu bản sắc địa phương bậc nhất cả nước.
Sông Lam Nghệ An chính thức được thành lập vào năm 1979 sau khi được xếp thi đấu ở hạng A2 toàn quốc. Sân nhà của Sông Lam Nghệ An là sân vận động Vinh, sức chứa hiện nay là 18.000 khán giả. Trang phục thi đấu truyền thống của Sông Lam Nghệ An là màu vàng mang đậm chất xứ Nghệ nên họ có biệt danh là Đội bóng áo vàng (hay Đội bóng xứ Nghệ). Câu lạc bộ là một trong những đội bóng có truyền thống lịch sử lâu đời nhất ở Việt Nam.
Trong hơn 40 năm tồn tại, Sông Lam Nghệ An đã đem được nhiều chiến tích về trưng bày trong phòng truyền thống của mình: 3 danh hiệu Vô địch Quốc gia, 3 Cúp Quốc gia, 4 Siêu cúp Quốc gia và 1 danh hiệu vô địch Giải tập huấn mùa xuân. Ở đấu trường quốc tế, đội có thành tích thi đấu khá tốt tại AFC Champions League vào năm 2001. Trên bình diện quốc nội, với 10 danh hiệu chính thức ở cấp độ đội một và hàng loạt danh hiệu lớn nhỏ khác tại các cấp độ trẻ, Sông Lam Nghệ An là một trong số các câu lạc bộ giàu thành tích nhất cả nước.
Lịch sử câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
- 1979–1992: Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh
- 1992–1994: Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An
- 1994–2004: Đoàn bóng đá Sông Lam Nghệ An
- 2004–2007: Câu lạc bộ bóng đá PJICO Sông Lam Nghệ An
- 2007–2009: Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An
- 2009–nay: Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
Tiền thân
Thời kỳ Pháp thuộc, khu vực Vinh – Bến Thủy từng có một đội bóng lừng danh mang tên là Đội Áo Vàng. Đây được xem như là khởi đầu của truyền thống bóng đá Nghệ An. Một số người cho rằng đây là nguồn gốc của màu áo vàng truyền thống của đội Sông Lam Nghệ An ngày nay.
Tuy vậy, vùng Nghệ Tĩnh hầu như không có một đột bóng nổi bật nào suốt hầu hết thời gian chiến tranh. Mãi đến năm 1973, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh mới thành lập một đội bóng nghiệp dư để thi đấu ở Giải hạng B phong trào. Đội bóng này được xem là tiền thân của Sông Lam Nghệ An ngày nay.
Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh (1979–1992)
Năm 1979, sau khi hệ thống Giải bóng đá vô địch quốc gia được thành lập, với thành tích thi đấu tốt, đội được xếp thi đấu ở hạng A2 toàn quốc. ngày 28/2/1979, đội bóng được chính thức được Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh chuyển về Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh quản lý và đổi tên thành Đội bóng đá Sông Lam.
Năm 1980, Huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh bắt đầu nắm đội 1 của Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh. Từ đây, mặc dù là một đội bóng "trẻ" trong nền bóng đá Việt Nam so với các đội bóng cùng thời như Thể Công, Cảng Sài Gòn, Công an Hà Nội, Công an Hải Phòng, nhưng với những nỗ lực của huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh, đội bóng Sông Lam đã bắt đầu có được chuỗi thành tích, cũng như một lối đá đặc trưng của riêng mình, sánh vai với các đội bóng đàn anh.
Năm 1986, đội lần đầu tiên thi đấu ở hạng A1 toàn quốc (hạng cao nhất lúc đó). Dù chỉ xếp hạng 5/6 ở bảng C và không vào được vòng 2, đây lại là khởi đầu của thành tích thi đấu bền bỉ ở các giải vô địch cao nhất quốc gia của đội bóng Sông Lam.
Năm 1989, lần đầu tiên phân hạng đội mạnh. Tuy không thi đấu ở vòng 2 do phải sang Lào thi đấu, đội vẫn được đặc cách thăng hạng đội mạnh bởi thành tích thi đấu tốt ở vòng 1.
Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1990, trong trận thi đấu với đội Dệt Nam Định, các cầu thủ Dệt Nam Định đuổi đánh trọng tài Nguyễn Thu nên hai đội cùng bị kỷ luật xuống hạng A1. Tuy nhiên sau đó, Liên đoàn bóng đá Việt Nam hủy quyết định và công nhận Sông Lam Nghệ Tĩnh vẫn ở giải đội mạnh, còn Dệt Nam Định bị cấm thi đấu một năm.
Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1991, đội thi đấu với thành tích yếu kém, phải thi đấu chung kết ngược với đội Long An và may mắn trụ hạng nhờ thắng trong loạt đá luân lưu.
Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An (1992–1994)
Năm 1992, Nghệ Tĩnh được tách thành hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Đội bóng Sông Lam Nghệ Tĩnh được chuyển về cho tỉnh Nghệ An quản lý và đổi tên thành Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An. Cũng trong năm này, đội lọt vào bán kết và đạt hạng 3 giải bóng đá vô địch quốc gia.
Đoàn bóng đá Sông Lam Nghệ An (1994–2004)
ngày 21/3/1994, Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An có quyết định đổi tên thành Đoàn bóng đá Sông Lam và chuyển đổi hình thức tổ chức thành một đơn vị sự nghiệp thuộc ngành Thể dục Thể thao.
Năm 1996, đội thi đấu xuất sắc và đoạt Huy chương đồng Giải vô địch Quốc gia, Huy chương đồng Cúp Quốc gia 1996.
Tại mùa giải 1997, đội tiếp tục thi đấu khởi sắc nhưng lại bỏ lỡ cơ hội vô địch khi đội Thể Công bất ngờ bị cầm hòa với Cảng Sài Gòn ngay trên sân Cột Cờ. Thua 1 điểm, Sông Lam đành nhận huy chương bạc. Cũng trong năm này, tại giải vô địch giải bóng đá trong nhà, đội đoạt chức vô địch sau khi đánh bại đội Long An.
Năm 1998 là một mùa bóng nhiều thành tích của đội: Á quân Giải vô địch Quốc gia, huy chương đồng Cúp Quốc gia 1998, Vô địch cúp Dunhill khi đánh bại Công an Hà Nội 2–0 trong trận chung kết trên sân Vinh, tiếp tục vô địch Cúp bóng đá trong nhà.
Năm 1999, đội đoạt chức vô địch Giải bóng đá tập huấn mùa xuân 1999 với trận thắng Công an Hà Nội ngay trên sân Hàng Đẫy bằng loạt sút luân lưu 11m với sự xuất sắc của Võ Văn Hạnh. Trong giải Cúp Dunhill cuối cùng ở Hải Phòng, đội giành Huy chương bạc.
Năm 2000, đội lần đầu tiên đoạt chức vô địch Giải vô địch Quốc gia với 43 điểm sau 24 vòng đấu. Văn Sỹ Thủy là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất và đạt danh hiệu "Vua phá lưới" của giải. Thành tích này không thể không có những đóng góp to lớn của Nguyễn Thành Vinh, người từng có 19 năm giữ cương vị huấn luyện viên trưởng, cùng bóng đá xứ Nghệ vượt qua khó khăn để đạt được vinh quang đầu tiên cho câu lạc bộ. Cùng năm đó, họ tiếp tục thành công khi đánh bại Cảng Sài Gòn 2–0 trên sân Hàng Đẫy và đoạt Siêu cúp Quốc gia. Với thế hệ tài năng của Văn Sỹ Hùng, Văn Sỹ Thủy, Ngô Quang Trường, Phan Thanh Tuấn, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Hữu Thắng, Nguyễn Phi Hùng, Võ Văn Hạnh, Hà Mai Giang cùng các ngoại binh chất lượng như Iddi Batambuje, Lulenti Kyeyune, Enock Kyembe, Fred Tamala, tất cả đều trở thành biểu tượng chiến thắng của bóng đá xứ Nghệ khi đó.
Năm 2001, Giải vô địch Quốc gia chính thức chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp, và được mang tên V.League. Sông Lam Nghệ An tiếp tục một mùa bóng đầy thăng hoa khi là câu lạc bộ đầu tiên vô địch quốc gia với tên gọi V.League. Năm 2001 trở đi, kết thúc một chuỗi thành công của đội bóng xứ Nghệ, câu lạc bộ bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nhiều cầu thủ đã từng mang đến thành công cho đội bóng lần lượt ra đi bởi nguồn tài chính của câu lạc bộ quá eo hẹp. Hàng loạt ngoại binh có chất lượng không thể giữ chân nổi.
Câu lạc bộ bóng đá PJICO Sông Lam Nghệ An (2004–2007)
Là một trong những đội bóng mạnh, nhưng Sông Lam Nghệ An lại bước vào hình thức chuyên nghiệp khá trễ. Trong nhiều năm liền, đội được đặt dưới quyền quản lý của Sở Thể dục Thể thao Nghệ An. Mãi đến năm 2004, đội lần đầu tiên thi đấu chuyên nghiệp với sự tài trợ từ Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO, lấy tên ghép từ nhà tài trợ: Câu lạc bộ PJICO Sông Lam Nghệ An. Cũng vào giai đoạn này, huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh rời xứ Nghệ vào TP. Hồ Chí Minh với Câu lạc bộ Ngân hàng Đông Á, chẳng bao lâu sau, ông Nguyễn Hồng Thanh ra Hà Nội. Tất cả khiến câu lạc bộ chìm trong cơn khủng hoảng về nhân sự, cùng hàng loạt vụ tiêu cực xảy ra. Sau nhiều biến cố, với sự tài trợ từ PJICO, nguồn tài chính của đội bóng dần cải thiện, không còn rơi vào những hoàn cảnh bế tắc về chất lượng nội binh như những năm trước. Mùa bóng 2004, đội thi đấu không được ổn định và chỉ đạt 37 điểm, xếp vị trí thứ 4 sau 22 trận.
Năm 2005, ông Nguyễn Hữu Thắng trở lại câu lạc bộ với tư cách là huấn luyện viên trưởng. Nhưng mùa bóng năm đó, câu lạc bộ không có thành tích gì nổi bật, họ vẫn thi đấu một cách mờ nhạt kể cả ngoại binh lẫn cầu thủ nội. Kết thúc 22 vòng đấu, câu lạc bộ đạt 31 điểm, xếp vị trí thứ 5.
Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An (2007–2009)
Đến năm 2007, sau khi PJICO rút lui, Tổng Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC) thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã nhận tài trợ cho đội. Từ mùa bóng 2007, đội thi đấu với tên mới là Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An. Ông Hồ Nghĩa Thứ - Chánh Văn phòng PVFC được cử làm đồng Chủ tịch Câu lạc bộ.
Được sự tài trợ về nguồn tài chính nhưng giai đoạn này câu lạc bộ không có bất kì thành công nào. Việc những tài năng như Lê Công Vinh, Dương Hồng Sơn, Nguyễn Hồng Tiến, Cao Xuân Thắng,...ra đi đã khiến Sông Lam Nghệ An loay hoay tìm giải pháp thay thế. Sau nhiều năm không danh hiệu, Sông Lam Nghệ An đã vực dậy cải thiện tài chính và đặt niềm tin vào những cầu thủ trưởng thành từ lò đào tạo của mình. Những năm gần đây, Sông Lam Nghệ An tiếp tục duy trì được yếu tố địa phương, điều mà không nhiều đội bóng tại V.League có thể làm được.
Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An (2009–nay)
Năm 2009, Công ty Cổ phần Bóng đá Sông Lam Nghệ An được thành lập với vốn điều lệ 100 tỷ đồng, gồm các cổ đông chính là Ngân hàng Bắc Á, Tập đoàn TH Truemilk. Từ đây, câu lạc bộ chuyển hẳn sang hình thức chuyên nghiệp với tên gọi Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An.
Năm 2010 mở đầu một thời kì thành công mới cho bóng đá Sông Lam Nghệ An. Với sự trở lại của huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng, câu lạc bộ đã đánh bại Hoàng Anh Gia Lai 1–0 trên Sân vận động Thống Nhất để mang về phòng truyền thống chiếc Cúp Quốc gia thứ 2 trong lịch sử của họ. Đây cũng là bàn đạp để thầy trò huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng giành nhiều danh hiệu cao quý khác của bóng đá Việt Nam.
Mùa giải 2011, câu lạc bộ tiếp tục đoạt chức vô địch lần thứ 3 với trận hoà 1–1 trước Hà Nội T&T ngay trên Sân Vinh, kết thúc V.League với 49 điểm sau 26 vòng đấu. Huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng cũng trở thành nhà vô địch V.League cả trong vai trò cầu thủ lẫn huấn luyện viên. Tuy nhiên, đội lại để chức vô địch Cúp Quốc gia 2011 rơi vào tay Navibank Sài Gòn khi thất bại 0–3 trên Sân vận động Thống Nhất. Sông Lam Nghệ An sau đó đã được bù đắp bằng Siêu cúp thứ 4 sau trận thắng 3–1 trước chính đối thủ cũ Navibank Sài Gòn trên sân Vinh, qua đó giành cú ăn hai ở mùa bóng 2011.
Năm 2012, Sông Lam Nghệ An chính thức nhận được sự đảm bảo vững chắc về tài chính từ Ngân hàng Bắc Á. Ngoài ra, phía ngân hàng này sẽ phê duyệt những đề án về việc phát triển đội bóng trong các mùa giải.
Mùa giải 2017, dù chỉ cán đích V.League ở vị trí thứ 7, Sông Lam Nghệ An đã vượt qua những Đắk Lắk, Hà Nội, TP.HCM, Quảng Nam và Becamex Bình Dương để nâng cao chức vô địch Cúp Quốc gia 2017.
Kết thúc giải đấu V.League 1 2020, câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 10 (thành tích tệ nhất trong số lần tham dự V.League 1 của đội) và giành giải phong cách. Cũng trong năm 2020, lần đầu tiên tất cả 6 đội trẻ của Sông Lam Nghệ An tham dự các giải trẻ vô địch quốc gia đều giành huy chương với 3 chức vô địch ̣(U-11, U-13, U-17), 1 huy chương bạc (U-21), 2 huy chương đồng (U-19, U-15) và được vinh danh là câu lạc bộ đào tạo trẻ tốt nhất năm.
Đầu năm 2022, câu lạc bộ chính thức công bố bộ nhận diện thương hiệu mới. Logo cũ của đội bóng đã được thay thế bằng logo mới với thiết kế hiện đại hơn.
Trang phục thi đấu của SLNA FC
Giai đoạn | Hãng trang phục | Nhà tài trợ in lên áo | ||||
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | ||
2000–2001 | Adidas | Highlands Coffee (V.League) Pepsi (Cúp Quốc gia) Honda (Siêu cúp Quốc gia) Tiger Beer | Samsung SyncMaster | Không có | Không có | Không có |
2001–2002 | Strata (V.League) Samsung (Cúp Quốc gia) Tiger Beer | |||||
2003 | Grand Sport | Samsung | Strata | |||
2004 | LILAMA | Vida | ||||
2005 | PJICO | Halida | ||||
2006 | Không có | |||||
2007–2008 | Không có | Tài chính Dầu khí PVFC | ||||
2009 | Không có | |||||
2010 | Grand Sport | Eurowindow | ||||
2011 | Không có | |||||
2012–2013 | Không có | Bac A Bank | ||||
2014 | Ý Kappa | |||||
2015–2016 | Không có | |||||
2017 | Mitre | |||||
2018 | TH true JUICE milk | |||||
2019 | TH true WATER | |||||
2020–2021 | TH true JUICE milk | Bac A Bank | ||||
2022 | Grand Sport | Gạo A AN | Eurosun | |||
2023–2024 | Nikkokutrust | Eurosun | ||||
2024–nay | Kamito | Bia Sao Vàng | Nikkokutrust | Eurosun | SIBA Group (duy nhất vòng 1) |
Kình địch của CLB Sông Lam Nghệ An
Hà Nội FC
Đây được xem là một trong những cặp đấu đáng chú ý cũng như nhiều duyên nợ nhất tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Cả hai câu lạc bộ đều là những tên tuổi lớn của bóng đá Việt Nam, ở cả cấp độ đội một lẫn các cấp độ đội trẻ với bề dày thành tích đáng nể, vì vậy mỗi cuộc đối đầu giữa hai đội bất kể là ở cấp độ nào đều nhận được sự quan tâm lớn của truyền thông và người hâm mộ cả nước.
Ngoài ra, với sự có mặt đông đảo của cộng đồng người gốc Nghệ Tĩnh sinh sống và làm việc tại thủ đô Hà Nội, Sông Lam Nghệ An luôn nhận được sự ủng hộ to lớn với "biển" người hâm mộ sẵn sàng phủ vàng khán đài sân Hàng Đẫy để biến nó trở thành một "chảo lửa thành Vinh" ngay trên đất khách.
Hoàng Anh Gia Lai
Trong lịch sử 18 năm đối đầu với Hoàng Anh Gia Lai trên sân Vinh, ngoài trận thua 1–2 ở năm 2010, Sông Lam Nghệ An giành 12 trận thắng, 5 trận hoà (2003, 2005, 2008, 2011, 2014). Khi làm khách trên sân Pleiku của Hoàng Anh Gia Lai, đội bóng xứ Nghệ thua đến 9 trận, hòa 5 và thắng 2. Cuộc đối đầu giữa hai câu lạc bộ luôn được coi là cuộc đối đầu giữa hai mô hình đào tạo trẻ với hai triết lý khác nhau.
Thanh Hóa (derby Bắc Trung Bộ)
Nghệ An và Thanh Hóa vẫn thường được đem ra so sánh với nhau ở rất nhiều khía cạnh, trong đó không thể không kể đến bóng đá, một phần lớn cũng là do việc đây là hai tỉnh hàng xóm của nhau cũng như sự so kè sát sao trong suy nghĩ của người dân hai tỉnh khi họ luôn có ý thức đề cao lòng tự tôn đối với quê hương của mình. Vì thế cũng không quá ngạc nhiên khi từ trước đến nay, những cuộc chạm trán giữa nền bóng đá hai tỉnh luôn diễn ra đầy nóng bỏng và quyết liệt. Sân Thanh Hóa luôn là một nơi "đi dễ khó về" cho đội bóng xứ Nghệ, lần đây nhất Sông Lam Nghệ An giành được một chiến thắng tại đây trong khuôn khổ V.League đã là từ mùa giải 2011.
Câu lạc bộ bóng đá Hồng Lĩnh Hà Tĩnh
Đây được xem là một trong những cặp đấu đáng chú ý nhất tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, một phần nhiều là do mối quan hệ thân thiết và gần gũi giữa hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh với nhau, và thường được ví von là cuộc đối đầu giữa những người anh em ở đôi bờ dòng Lam.
Trước đây, khi đội bóng Hồng Lĩnh Hà Tĩnh chưa được thành lập, hầu như toàn bộ người dân của hai tỉnh đều cổ vũ cho Sông Lam Nghệ An bởi đây là đội bóng duy nhất đại diện cho xứ Nghệ thi đấu trong hệ thống bóng đá quốc gia, cũng như do người dân hai tỉnh xưa nay vẫn xem nhau như "người một nhà". Kể từ sau khi Hồng Lĩnh Hà Tĩnh xuất hiện và trở thành đại diện chính thức của bóng đá Hà Tĩnh vào năm 2019, một bộ phận những người hâm mộ quê Hà Tĩnh từng là cổ động viên của Sông Lam Nghệ An đã chuyển sang ủng hộ đội bóng quê nhà. Dù hiện nay đã là hai địa phương hoàn toàn riêng biệt nhưng các cuộc chạm trán giữa hai câu lạc bộ vẫn được xem là biểu tượng cho sự gắn bó sâu sắc về tình cảm, địa lý và văn hóa giữa hai địa phương nói chung cũng như giữa những người dân ở hai đầu cầu Bến Thủy nói riêng; là hình ảnh tượng trưng rõ nét cho niềm đam mê bóng đá mãnh liệt của người dân xứ Nghệ, cùng với tình yêu dành cho quê hương và tinh thần sông Lam – núi Hồng được thể hiện một cách đầy mạnh mẽ.
Đội hình câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
Họ và Tên | Số áo | Vị trí | Năm sinh |
---|---|---|---|
Nguyễn Ngọc Anh | Trợ lý HLV | ||
Phạm Bùi Minh | Trợ lý HLV | ||
Nguyễn Văn Việt | 1 | Thủ môn | 12/07/2002 |
Vương Văn Huy | 2 | Hậu vệ | 10/08/2001 |
Lê Nguyên Hoàng | 3 | Hậu vệ | 14/02/2005 |
Hồ Khắc Lương | 4 | Hậu vệ | 10/01/2001 |
Lê Văn Thành | 5 | Hậu vệ | 24/07/2001 |
Trần Đình Hoàng | 6 | Hậu vệ | 08/12/1991 |
Olaha Michael Onyedikachi | 7 | Tiền đạo | 04/07/1997 |
Hồ Văn Cường | 8 | Hậu vệ | 15/01/2003 |
Đinh Xuân Tiến | 9 | Tiền vệ | 10/01/2003 |
Benjamin Thomas Kuku | 10 | Tiền đạo | 08/03/1995 |
Trần Mạnh Quỳnh | 11 | Tiền vệ | 18/01/2001 |
Bùi Thanh Đức | 12 | Hậu vệ | 06/03/2006 |
Phùng Văn Nam | 13 | Tiền đạo | 22/01/2006 |
Nguyễn Trọng Tuấn | 14 | Tiền vệ | 18/01/2006 |
Eduardo Sebastian Zaracho Espinola | 15 | Hậu vệ | 20/01/1999 |
Nguyễn Quang Vinh | 16 | Tiền vệ | 27/01/2005 |
Trần Nam Hải | 17 | Tiền vệ | 05/02/2004 |
Hồ Phúc Tịnh | 18 | Tiền đạo | 28/08/1994 |
Phan Bá Quyền | 19 | Hậu vệ | 17/02/2002 |
Ngô Văn Lương | 20 | Tiền đạo | 03/06/2001 |
Phan Xuân Đại | 21 | Tiền đạo | 01/01/2003 |
Nguyễn Xuân Bình | 22 | Tiền vệ | 24/05/2001 |
Nguyễn Mai Hoàng | 23 | Hậu vệ | 21/02/2005 |
Nguyễn Hữu Hậu | 25 | Thủ môn | 19/04/2004 |
Cao Văn Bình | 26 | Thủ môn | 08/01/2005 |
Phạm Nguyễn Quốc Trung | 27 | Tiền vệ | 06/05/2006 |
Nguyễn Văn Bách | 28 | Tiền vệ | 02/01/2003 |
Đặng Quang Tú | 29 | Tiền vệ | 13/06/2001 |
Phan Văn Thành | 33 | Hậu vệ | 27/06/2006 |
Lê Đình Long Vũ | 38 | Tiền đạo | 27/05/2006 |
Thành tích thi đấu
Vô địch Quốc gia
Mùa giải | Thứ hạng | ST | T | H | B | BT | BB | Điểm |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải bóng đá A1 toàn quốc | ||||||||
1986 | Thứ 5 bảng C g.đ. 1 | 10 | 2 | 3 | 5 | 9 | 17 | 7 |
1987 | Thứ 8 bảng A g.đ. 1 | 16 | 04/01/1900 | 3 | 9 | 11 | 21 | 11 |
1989 | Thứ 2 bảng B g.đ. 1 | 9 | 04/01/1900 | 3 | 2 | 15 | 12 | 11 |
Giải bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc | ||||||||
1990 | Thứ 5 bảng B g.đ. 1 | Không rõ thành tích cụ thể | ||||||
1991 | Thứ 7 bảng B vòng bảng | 13 | 01/01/1900 | 7 | 5 | 6 | 10 | 9 |
1992 | Đồng thứ 3 | 11 | – | – | – | 6 | 6 | 11 |
1993–94 | Thứ 3 bảng B g.đ. 1[13] | 7 | 03/01/1900 | 3 | 1 | 7 | 6 | 9 |
1995[14] | Tứ kết nhánh thua g.đ. 2 | 15 | 07/01/1900 | – | 8 | 20 | 22 | 12 |
1996 | Thứ 3 | 23 | 12/01/1900 | 3 | 8 | 31 | 25 | 36 |
Giải bóng đá hạng Nhất quốc gia | ||||||||
1997 | Á quân | 22 | 11/01/1900 | 3 | 8 | 28 | 17 | 36 |
1998 | Á quân | 26 | 13/01/1900 | 5 | 8 | 46 | 34 | 44 |
Tập huấn 1999 | Vô địch | 8 | 05/01/1900 | 3 | 0 | 16 | 4 | 18 |
1999–00 | Vô địch | 24 | 11/01/1900 | 10 | 3 | 35 | 20 | 43 |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Chuyên nghiệp | ||||||||
2000–01 | Vô địch | 18 | 11/01/1900 | 3 | 4 | 20 | 16 | 36 |
2001–02 | Á quân | 18 | 08/01/1900 | 4 | 6 | 22 | 20 | 28 |
2003 | Thứ 5 | 22 | 09/01/1900 | 5 | 8 | 25 | 16 | 32 |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia | ||||||||
2004 | Thứ 4 | 22 | 09/01/1900 | 10 | 3 | 38 | 17 | 37 |
2005 | Thứ 5 | 22 | 08/01/1900 | 7 | 7 | 33 | 28 | 31 |
2006 | Thứ 5 | 24 | 09/01/1900 | 9 | 6 | 27 | 27 | 36 |
2007 | Thứ 7 | 26 | 08/01/1900 | 11 | 7 | 38 | 35 | 35 |
2008 | Thứ 9 | 26 | 10/01/1900 | 7 | 9 | 45 | 35 | 36 |
2009 | Thứ 3 | 26 | 11/01/1900 | 10 | 5 | 39 | 28 | 43 |
2010 | Thứ 9 | 26 | 09/01/1900 | 10 | 7 | 34 | 26 | 37 |
2011 | Vô địch | 26 | 15/01/1900 | 4 | 7 | 47 | 28 | 49 |
2012 | Thứ 4 | 26 | 09/01/1900 | 14 | 3 | 44 | 30 | 41 |
2013 | Thứ 4 | 22 | 09/01/1900 | 6 | 5 | 40 | 24 | 33 |
2014 | Thứ 5 | 22 | 10/01/1900 | 6 | 6 | 38 | 26 | 36 |
2015 | Thứ 7 | 26 | 10 | 7 | 9 | 36 | 33 | 37 |
2016 | Thứ 9 | 26 | 9 | 7 | 10 | 34 | 36 | 34 |
2017 | Thứ 8 | 26 | 8 | 8 | 10 | 36 | 36 | 34 |
2018 | Thứ 4 | 26 | 12 | 6 | 8 | 38 | 32 | 42 |
2019 | Thứ 7 | 26 | 8 | 11 | 7 | 32 | 26 | 35 |
2020 | Thứ 10 | 18 | 6 | 5 | 7 | 17 | 21 | 23 |
2021 | Thứ 14 | 12 | 3 | 1 | 8 | 7 | 15 | 10 |
2022 | Thứ 5 | 24 | 9 | 6 | 9 | 29 | 28 | 33 |
2023 | Thứ 9 | 18 | 6 | 7 | 5 | 19 | 20 | 25 |
2023/24 | Thứ 12 | 26 | 7 | 9 | 10 | 27 | 32 | 30 |
Cúp Quốc gia
Mùa giải | Vòng đấu | Ngày | Sân vận động | Đối thủ | Kết quả | Thành tích | |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tỷ số | Tổng tỷ số | ||||||
2011 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Á quân | ||||
Vòng 1/8 | 15 tháng 1 năm 2011 | Vinh | Bảo hiểm Thái Sơn Quảng Nam | 2–1 | |||
Tứ kết | 12 tháng 2 năm 2011 | Vinh | Sài Gòn Xuân Thành | 4–2 | |||
Bán kết | 10 tháng 8 năm 2011 | Vinh | Hoàng Anh Gia Lai | 2–1 | |||
Chung kết | 27 tháng 8 năm 2011 | Thống Nhất | Navibank Sài Gòn | 0–3 | |||
2012 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Hạng 3 | ||||
Vòng 1/8 | 25 tháng 12 năm 2011 | Vinh | Tập đoàn Cao su Đồng Tháp | 2–1 | |||
Tứ kết | 29 tháng 1 năm 2012 | Vinh | Xi măng The Vissai Ninh Bình | 3–3 (5–4 p) | |||
Bán kết | 8 tháng 6 năm 2012 | Vinh | Sài Gòn Xuân Thành | 1–3 | |||
2013 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Vòng 1/8 | ||||
Vòng 1/8 | 26 tháng 3 năm 2013 | Thanh Hóa | Thanh Hóa | 0–0 (2–4 p) | |||
2014 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Vòng 1/8 | ||||
Vòng 1/8 | 17 tháng 5 năm 2014 | Gò Đậu | Becamex Bình Dương | 0–2 | |||
2015 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Tứ kết | ||||
Vòng 1/8 | 20 tháng 6 năm 2015 | Vinh | Đắk Lắk | 3–0 | |||
Tứ kết | 24 tháng 6 năm 2015 | Vinh | Becamex Bình Dương | 1–2 | |||
2016 | Vòng loại | 2 tháng 4 năm 2016 | Vinh | Sanna Khánh Hòa Biển Việt Nam | 1–0 | Vòng 1/8 | |
Vòng 1/8 | 10 tháng 6 năm 2016 | Lạch Tray | Hải Phòng | 1–2 | |||
2017 | Vòng loại | 4 tháng 2 năm 2017 | Vinh | Đắk Lắk | 3–1 | Vô địch | |
Vòng 1/8 | 3 tháng 6 năm 2017 | Mỹ Đình | Hà Nội | 1–1 (4–3 p) | |||
Tứ kết | 16 tháng 6 năm 2017 | Vinh | Thành phố Hồ Chí Minh | 3–1 | 7–1 | ||
20 tháng 6 năm 2017 | Thống Nhất | 4–0 | |||||
Bán kết | 27 tháng 9 năm 2017 | Vinh | Quảng Nam | 4–1 | 7–4 | ||
6 tháng 10 năm 2017 | Tam Kỳ | 3–3 | |||||
Chung kết | 9 tháng 11 năm 2017 | Gò Đậu | Becamex Bình Dương | 2–1 | 7–2 | ||
30 tháng 11 năm 2017 | Vinh | 5–1 | |||||
2018 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Hạng 3 | ||||
Vòng 1/8 | 29 tháng 4 năm 2018 | Vinh | Thành phố Hồ Chí Minh | 2–0 | |||
Tứ kết | 11 tháng 5 năm 2018 | Hòa Xuân | SHB Đà Nẵng | 3–1 | 5–1 | ||
15 tháng 5 năm 2018 | Vinh | 2–0 | |||||
Bán kết | 25 tháng 7 năm 2018 | Thanh Hóa | Thanh Hóa | 3–2 | 3–6 | ||
5 tháng 9 năm 2018 | Vinh | 0–4 | |||||
2019 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Vòng 1/8 | ||||
Vòng 1/8 | 29 tháng 6 năm 2019 | Vinh | Quảng Nam | 2–2 (8–9 p) | |||
2020 | Vòng loại | 24 tháng 5 năm 2020 | Vinh | Bình Định | 1–0 | Vòng 1/8 | |
Vòng 1/8 | 30 tháng 5 năm 2020 | Vinh | Bà Rịa – Vũng Tàu | 1–1 (4–5 p) | |||
2021 | Vòng loại | 23 tháng 4 năm 2021 | PVF | Phố Hiến | 0–1 | Vòng loại | |
2022 | Vòng loại | 7 tháng 4 năm 2022 | Bình Phước | Bình Phước | 1–2 | Vòng loại | |
2023 | Vòng loại | 1 tháng 4 năm 2023 | Vinh | Quảng Nam | 1–1 (3–4 p) | Vòng loại | |
2023/24 | Vòng loại | 26 tháng 11 năm 2023 | Vinh | Đồng Tháp | 6–2 | Vòng 1/8 | |
Vòng 1/8 | 13 tháng 3 năm 2024 | Vinh | SHB Đà Nẵng | 0–1 |
Đấu trường châu lục
Cúp C1 châu Á: 2 lần tham dự
- 2000–01: Vòng 1
- 2001–02: Vòng 1
Cúp C2 châu Á: 3 lần tham dự
- 2011: Vòng 16 đội
- 2012: Vòng bảng
- 2018: Vòng bảng
Mùa giải | Vòng đấu | ST | T | H | B | BT | BB | Đối thủ | Sân nhà | Sân khách |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cúp C1 châu Á | ||||||||||
2000–01 | Vòng 1 | 2 | 0 | 1 | 1 | 1 | 4 | PSM Makassar | 1–4 | 0–0 |
2001–02 | Vòng 1 | – | Saunders | w/o | ||||||
Tổng cộng | 2 | 0 | 1 | 1 | 1 | 4 | – | |||
Cúp C2 châu Á | ||||||||||
2011 | Vòng bảng | 6 | 4 | 0 | 2 | 16 | 10 | Sriwijaya | 4–0 | 1–3 |
TSW Pegasus | 1–2 | 3–2 | ||||||||
VB | 4–2 | 3–1 | ||||||||
Vòng 16 đội | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 | Persipura Jayapura | 1–3 | – | |
2012 | Vòng bảng | 6 | 2 | 1 | 3 | 6 | 9 | Kitchee | 1–0 | 0–2 |
Terengganu | 0–1 | 2–6 | ||||||||
Tampines Rovers | 3–0 | 0–0 | ||||||||
2018 | Vòng bảng | 6 | 3 | 1 | 2 | 8 | 5 | Persija Jakarta | 0–0 | 0–1 |
Johor Darul Ta'zim | 2–0 | 2–3 | ||||||||
Tampines Rovers | 2–1 | 2–0 | ||||||||
Tổng cộng | 19 | 9 | 2 | 8 | 31 | 27 | – |
Danh hiệu chính thức
Sông Lam Nghệ An là đội bóng...
- ... đầu tiên của Việt Nam:
- Cán mốc 1.000 điểm khi thi đấu ở giải Vô địch Quốc gia.
- Cán mốc 1.000 bàn thắng khi thi đấu ở giải Vô địch Quốc gia.
- ... duy nhất của Việt Nam:
- Xuất hiện ở tất cả các mùa giải Vô địch Quốc gia kể từ khi giải bắt đầu chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp vào năm 2000.
- Đã lên ngôi vô địch ở tất cả những giải đấu cấp quốc gia dành cho các lứa tuổi từ nhỏ nhất (U-9) đến lớn nhất (đội một).
Một số kỷ lục quốc gia khác:
- Tham dự nhiều mùa giải Vô địch Quốc gia nhất (36 mùa tính đến mùa giải 2024–25).
- Tham dự nhiều mùa giải Vô địch Quốc gia liên tiếp nhất (36 mùa tính đến mùa giải 2024–25).
Đội một
Vô địch Quốc gia
- Vô địch: 1999–00, 2000–01, 2011
- Á quân: 1997, 1998, 2001–02
- Hạng ba: 1992, 1996, 2009
Cúp Quốc gia
- Vô địch: 2001–02, 2010, 2017
- Á quân: 2011
- Hạng ba: 1996, 1998, 2004, 2007, 2009, 2012, 2018
Siêu cúp Quốc gia
- Vô địch: 2000, 2001, 2002, 2011
- Á quân: 2010, 2017
Đại hội Thể thao toàn quốc (đại diện cho tỉnh Nghệ An)
Thành tích chỉ được thống kê ở 7 kỳ Đại hội gần nhất (từ 1995 đến 2022), vậy nên số liệu ở mục này chưa đầy đủ.
- Huy chương vàng: 2014, 2022
- Huy chương bạc: 2018
- Huy chương đồng: 2010
U-21
- Vô địch: 2000, 2001, 2002, 2012, 2014
- Á quân: 2003, 2007, 2010, 2020, 2023
- Hạng ba: 2004, 2011, 2013, 2017
U-19
- Vô địch: 1999, 2001, 2004, 2005, 2006
- Á quân: 2002, 2007, 2011, 2013, 2014, 2023
- Hạng ba: 1998, 2000, 2008, 2012, 2018, 2019, 2020, 2021, 2022, 2024
U-17
- Vô địch: 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2012, 2020
- Á quân: 2010, 2018
- Hạng ba: 2015, 2022, 2023
U-15
- Vô địch: 2002, 2018, 2019, 2022
- Á quân: 1999, 2008, 2023
- Hạng ba: 2003, 2005, 2017, 2020
U-13 (đội thiếu niên)
- Vô địch: 1997, 1998, 2003, 2013, 2014, 2018, 2019, 2020, 2022, 2023, 2024
- Á quân: 2015, 2016
- Hạng ba: 1999, 2017
U-11 (đội nhi đồng)
- Vô địch: 2001, 2002, 2017, 2018, 2019, 2020, 2022, 2024
- Á quân: 1997
- Hạng ba: 1996, 1998, 1999, 2000, 2003, 2009, 2015, 2023
U-9
- Vô địch: 2021, 2022
- Á quân: 2024
- Hạng ba: 2023
Giải thưởng khác
Huân chương Lao động hạng ba do Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng
Cờ đơn vị thi đua xuất sắc của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An hai năm liền 1998, 1999–00
Cờ thi đua của Chính phủ tặng đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm 2000–01
Cờ đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mùa giải 2000–01 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An