Tiểu sử câu lạc bộ AC Milan - CLB lừng danh thế giới
Associazione Calcio Milan S.p.A. (Công ty cổ phần Câu lạc bộ bóng đá Milan, thường được biết đến với tên gọi tắt A.C. Milan, AC Milan hay đơn giản là Milan) là một câu lạc bộ bóng đá của thành phố Milano, Ý được thành lập ngày 16 tháng 12 năm 1899.
- 1. Tổng quan
- 2. Lịch sử
- 2.1. Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ hai
- 2.2. Thập niên 1950 và 1960
- 2.3. Thập niên 1970 và 1990
- 2.4. Giai đoạn của Ancelotti (2001-2009)
- 2.5. Từ năm 2009 đến 2012
- 2.6. Từ năm 2012-2020: Giai đoạn sa sút và đổi chủ
- 2.7. Mùa giải 2020 đến nay
- 3. Màu sắc và trang phục
- 3.1. Logo, linh vật và nhà tài trợ
- 4. Sân nhà
- 5. Thương hiệu
- 6. Cổ động viên
- 7. Trụ sở
- 8. Trung tâm thể thao Milanello
- 9. Kình địch
- 9.1. Ở Italia
- 9.1.1. Derby della Madonnina
- 9.1.2. Cạnh tranh với Juventus
- 9.2. Cup châu Âu
- 10. Đội hình hiện tại
- 10.1. Đội hình chính thức
- 11. Đội tuyển trẻ
- 12. Thành viên nổi bật
- 12.1. Số áo vinh danh
- 12.2. Phòng danh dự
- 12.3. Đội trưởng
- 12.4. Cầu thủ vô địch thế giới
- 12.5. Cầu thủ vô địch châu lục
- 12.5.1. Châu Âu
- 12.5.2. Nam Mỹ
- 12.5.3. châu Phi
- 12.6. Cúp Liên đoàn các châu lục
- 13. Chủ tịch và Huấn luyện viên
- 13.1. Các đời chủ tịch
- 13.2. Các đời huấn luyện viên
- 14. Thống kê và thành tích
- 14.1. Thống kê
- 15. Danh hiệu
- 15.1. Danh hiệu chính thức
- 15.1.1. Quốc gia
- 15.1.2. Quốc tế
- 15.2. Chuyển nhượng
- 15.2.1. 10 bản hợp đồng mua về đắt giá nhất
- 15.2.2. 10 bản hợp đồng bán đi đắt giá nhất
- 15.3. Số liệu
- 15.3.1. Danh sách cầu thủ khoác áo nhiều nhất
- 15.3.2. Danh sách cầu thủ ghi bàn nhiều nhất
Thông tin trong bài viết sử dụng tư liệu từ wikipedia.
1. Tổng quan
AC Milan đã dành toàn bộ lịch sử của mình, ngoại trừ các mùa giải 1980–81 và 1982–83, ở giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý, được gọi là Serie A kể từ mùa giải 1929–30.
18 danh hiệu FIFA và UEFA của AC Milan là cao thứ 4 so với bất kỳ câu lạc bộ nào (cùng với Boca Juniors), và nhiều nhất so với bất kỳ câu lạc bộ Ý nào. Milan đã giành được kỷ lục chung 3 Cúp liên lục địa và một FIFA Club World Cup, 7 danh hiệu European Cup/Champions League (kỷ lục của Ý), kỷ lục chung năm lần vô địch UEFA Super Cup và 2 lần vô địch Cup Winners' Cup. Với 19 chức vô địch quốc gia, Milan là câu lạc bộ thành công thứ hai ở Serie A với đối thủ địa phương Inter Milan (cũng 19 chức vô địch), sau Juventus (36 chức vô địch). Họ cũng đã 5 lần giành được Coppa Italia, và 7 lần giành được Supercoppa Italiana.
Các trận sân nhà của Milan được chơi tại San Siro, còn được gọi là Stadio Giuseppe Meazza. Sân vận động, được xây dựng bởi chủ tịch thứ hai của Milan Piero Pirelli vào năm 1926 và được chia sẻ từ năm 1947 với đối thủ cùng thành phố là Internazionale, là sân vận động lớn nhất của bóng đá Ý, với tổng sức chứa 75.817 chỗ ngồi. Họ có mối thù truyền kiếp với Inter, đội mà họ thi đấu trong trận Derby della Madonnina, một trong những trận derby được theo dõi nhiều nhất trong bóng đá.
Câu lạc bộ là một trong những câu lạc bộ giàu có nhất trong bóng đá Ý và thế giới. Đội là một thành viên sáng lập của nhóm G-14 hiện đã không còn tồn tại của các câu lạc bộ bóng đá hàng đầu châu Âu cũng như tổ chức thay thế nó, Hiệp hội các Câu lạc bộ Châu Âu.
2. Lịch sử
2.1. Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ hai
2.2. Thập niên 1950 và 1960
2.3. Thập niên 1970 và 1990
2.4. Giai đoạn của Ancelotti (2001-2009)
2.5. Từ năm 2009 đến 2012
Mùa giải 2009-10 chứng kiến Milan thi đấu mà không còn sự phục vụ của hậu vệ huyền thoại Paolo Maldini, đồng thời cho thấy một hệ thống phòng thủ tệ hại khi thiếu vắng người đội trưởng đồng thời là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại nặng nề của Milan trước đối thủ cùng thành phố Inter Milan. Ở vòng 2 dù cả hai đều được thi đấu tại San Siro, Milan với tư cách là chủ nhà, nhưng đội bóng của huấn luyện viên Leonardo đã thảm bại 0-4, trận đấu có thể cho là đã định đoạt ngay từ hiệp 1 khi Milan đã bị thủng lưới đến 3 bàn, ngoài ra trong trận đấu đó có 1 chiếc thẻ đỏ của tiền vệ Gennaro Gattuso. Còn trận lượt về, Milan thất thủ 0-2, và sau đó đứng nhìn nửa xanh thành Milano nâng cao chức vô địch lần thứ 18, qua đó chính thức bị Inter vượt mặt về số lần đoạt Scudetto. Tại Cup quốc gia, Milan cũng bị Udinese loại ngay tại San Siro với trận thua 0-1. Còn ở đấu trường châu Âu, mặc dù vượt qua vòng bảng, nhưng Rossoneri không thể tiến vào giải sâu hơn khi đối thủ tại vòng 1/16 của họ là Manchester United. Kết quả Milan bị đội bóng đến từ nước Anh đả bại với tổng tỉ số 7-2, trong đó có thật bại nặng nề 0-4 tại Old Trafford. Vào cuối mùa giải, huấn luyện viên Leonardo từ chức thay thế ông là Massimiliano Allegri.
Năm 2010 là sự chuyển biến tích cực của câu lạc bộ AC Milan, câu lạc bộ đã đoạt được chức vô địch Serie A mùa giải 2010-11, chấm dứt sự thống trị của Inter Milan trong những năm gần đây. Rossoneri vượt qua đối thủ cùng thành phố trong cả hai lượt trận với tỉ số lần lượt 1-0 và 3-0 rồi băng về đích với 6 điểm hơn chính Inter Milan, đội bóng xếp thứ 2. Tại Coppa Italia, nửa đỏ Milano cũng lọt vào trận bán kết, đối thủ của Milan là câu lạc bộ Palermo. Nhiều người kì vọng Milan tiến đến trận đấu cuối cùng để tạo thành 1 trận derby Milano, nhưng không như kì vọng, Palermo đã cho thấy họ là đội bóng kỵ rơ của Milan ở Cúp quốc gia khi khiến Milan thua 1-2 và bị loại. Còn ở châu Âu, Milan xuất sắc lọt qua vòng bảng, bảng đấu có sự góp mặt của Real Madrid, nhưng cũng như mùa giải trước, Milan dừng chân trước câu lạc bộ đến từ Anh và lần này là Tottenham ở vòng 1/16 với tổng tỉ số 0-1 khi thua 0-1 lượt đi diễn ra trên sân nhà và hòa 0-0 lượt về khi không thể tìm được đường vào khung thành đối phương. Dù thế, câu lạc bộ vẫn có 1 mùa giải trọn vẹn cùng Scudetto lần thứ 18, cân bằng thành tích với Inter Milan.
Mùa giải 2011-12, Milan mở đầu bằng trận tranh Siêu Cup Italia với màn lội ngược dòng trước kình địch Inter với tỉ số 2-1. Nhưng tại Serie A, Milan không thể tiếp tục bảo vệ ngôi vô địch khi bị Juventus bỏ xa về điểm số để rồi thua Inter với tỉ số 2-4 trong trận Derby Milano lượt về đã biến Milan trở thành cựu vương. Ở Cup châu Âu, Milan xuất sắc vượt qua vòng bảng, và chỉ xếp sau Barcelona. Vòng 1/16 Milan gặp lại Arsenal, đối thủ đã biến họ thành cựu vương năm 2008. Kết quả lượt đi AC Milan đã phục thù thành công khi đánh bại câu lạc bộ của Anh với tỉ số đậm 4-0, dù lượt về với hàng thủ lỏng lẻo đã để thua 0-3 nhưng Milan vẫn là đội đi tiếp. Trận tứ kết Milan tiếp tục chạm trán Barca, một đối thủ cực kỳ kị rơ với đội bóng của Ý tại các vòng đấu loại Cúp châu Âu, dù để thua 1-3 trận lượt về để chính thức bị loại, nhưng trận lượt đi chứng kiến một phong độ cực kỳ ổn định như thời đỉnh cao của Alessandro Nesta khi anh phong tỏa thành công tiền đạo chủ lực Lionel Messi bên phía Barca. Sau đó mùa giải 2011-12 là một màn chia tay của các cận vệ già của Milan, nếu đầu mùa là tiền vệ kiến tạo Andrea Pirlo thì cuối mùa là những công thần đã thi đấu lâu năm cho Milan như Gennaro Gattuso, Filippo Inzaghi, Alessandro Nesta, Gianluca Zambrotta, Clarence Seedorf hay phải bán đi những cầu thủ quan trọng như Thiago Silva, Zlatan Ibrahimović cho Paris SG. Việc chia tay các công thần đã dẫn đến sự sa sút của Milan ở những mùa giải sau đó.
2.6. Từ năm 2012-2020: Giai đoạn sa sút và đổi chủ
Mùa giải 2012-13, khi không còn các công thần trụ cột trong đội hình, Milan đã thực sự thi đấu bết bát, với việc không thể giữ lại trung vệ chủ chốt Thiago Silva ở lại sân San Siro, hàng thủ của họ trở nên lỏng lẽo, dễ dàng cho đối thủ của mình khai thác. Tại Serie A mùa giải này, trong 13 vòng đấu đầu tiên, Milan chỉ có thể giành được 4 chiến thắng, còn lại hòa và thua. Tại Cúp quốc gia, câu lạc bộ nhanh chóng rời giải khi thất bại 1-2 trước nhà đương kim vô địch Serie A, Juventus. Tuy nhiên mọi thứ sau đó đã mang lại chiều hướng tích cực cho Milan. Kể từ vòng 13 trở đi, Rossoneri chỉ để thua có 2 trận, sau đó là những chiến thắng quan trọng để bứt tốc xếp vị trí thứ 3 chung cuộc sau mùa giải, đủ để giành vé tham dự Champions League mùa sau. Còn tại Cúp châu Âu mùa giải năm ấy, Milan cũng lọt vào vòng 1/16, và gặp lại Barcelona một lần nữa. Tưởng rằng các cầu thủ Milan có thể phá được cái dớp luôn bị Barcelona loại ở vòng đấu trực tiếp sau khi họ đánh bại gã khổng lồ xứ Catalan 2-0 tại trận lượt đi bằng lối chơi phòng ngự phản công, thậm chí các cầu thủ Milan đã chuẩn bị ăn mừng chiến thắng trong lần đầu loại được Barca thì tại trận lượt về trên đất Tây Ban Nha, AC Milan đã bất ngờ thảm bại 0-4 sau đó thua chung cuộc 2-4 và đành rời khỏi giải. Mặc dù vẫn được dự Champions League mùa sau, nhưng đây là một mùa giải đầy những vấn đề cần khắc phục khi các công thần ra quyết định ra đi.
Mùa giải 2013-14 được coi là mùa giải cuối cùng của Allegri trên cương vị huấn luyện viên trưởng của AC Milan. Milan đã có một mùa giải không thể tệ hơn khi họ xếp ở vị trí thứ 8, đồng nghĩa với việc không thể tham dự Cúp châu Âu vào mùa giải sang năm. vào ngày 12 tháng 1 năm 2014, sau trận thua 3-4 trước Sassuolo, ban lãnh đạo của Milan đã quyết định sa thải huấn luyện viên Allegri, thay thế ông là cựu cầu thủ của Milan, huấn luyện viên tạm quyền Mauro Tassotti và sau đó vài ngày bổ nhiệm Clarence Seedorf là huấn luyện viên chính thức của câu lạc bộ. Nhưng Seedorf cũng không thể giúp tình hình khá hơn. Tại Cúp châu Âu, để có thể góp mặt vào vòng đấu bảng, Milan phải tham dự trận đấu Play-off gặp các cầu thủ PSV của Hà Lan. Trận lượt đi kết thúc với tỉ số hòa 1-1 và tại San Siro, Milan đã giành thắng lợi 3-0 để tham dự vòng bảng Champions League. Sau đó họ xếp thứ 2 chung cuộc sau 6 lượt trận vòng bảng. Tại vòng Knock-out, AC Milan gặp một đối thủ đến từ Tây Ban Nha khác là Atletico Madrid ở vòng 1/16. Kết quả họ đã để thua cả hai lượt trận lần lượt với tỉ số 0-1 và 1-4, qua đó rời giải với tổng tỉ số 1-5. Không đáp ứng được yêu cầu của ban lãnh đạo, sau khi mùa giải kết thúc, Clarence Seedorf phải ra đi, và thay thế cho ông là một cựu cầu thủ khác của Milan, Filippo Inzaghi.
Mùa giải 2014-15, năm Filippo Inzaghi lên làm huấn luyện viên và tiếp quản công việc tại Milan, kết quả cũng không khác là mấy, thậm chí tệ hơn. Câu lạc bộ chỉ về đích thứ 10 ở Serie A dẫn đến năm thứ 2 liên tiếp không được tham dự Cúp châu Âu. Tại mùa giải ấy, Milan còn không thể giành chiến thắng trước những đối thủ kình địch như Inter Milan, Juventus, Napoli hay Fiorentina. Còn tại Cúp quốc gia, câu lạc bộ còn bị Lazio loại ngay trên sân nhà. Cùng chung số phận như Seedorf, cuối mùa giải Inzaghi cũng phải rời khỏi Milan do không đáp ứng nhu cầu. Thay thế ông là Sinisa Mihajlovic.
Mùa giải 2015-16, ban lãnh đạo Milan đã quyết định chi tiền mạnh tay vào thị trường chuyển nhượng nhằm đem lại chiều hướng tích cực cho đội bóng. Hơn 80 triệu euro được tung ra để mang về các tân binh, trong đó có tiền đạo Carlos Bacca, cầu thủ giúp Sevilla lên ngôi vô địch Europa League trong những mùa giải gần đây. Tuy nhiên nỗi thất vọng của đội bóng Đỏ đen thành Milan lại kéo dài đến mùa giải thứ 3. Trong khi đối thủ cùng thành phố Inter Milan liên tục giành vé dự cúp châu Âu, thì họ lại ngụp lặng ở giữa bảng xếp hạng Serie A. Vào ngày 12 tháng 4 năm 2016, Mihajlovic bị sa thải, thay thế ông là huấn luyện viên tạm quyền Brocchi[64]. Năm ấy AC Milan về đích với vị trí thứ 7 chung cuộc và năm thứ 3 liên tiếp vắng mặt ở Cúp châu Âu. Còn tại Cúp quốc gia, Milan đã lọt vào đến trận chung kết gặp Juventus trước khi thất bại 0-1 sau 120 phút thi đấu. Đây cũng được xem là một mùa giải thất bại nữa, tuy nhiên di sản mà Mihajlovic để lại cho đội bóng chính là một phát hiện mới, thủ môn trẻ đầy tiềm năng Gianluigi Donnarumma.
Mùa giải 2016-17, AC Milan đã quyết định bổ nhiệm Vincenzo Montella lên làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ AC Milan. Cũng như những mùa giải trước đó, phong độ của AC Milan tại Serie A là rất bất thường. Mùa giải này tài năng trẻ Donnarumma đã trở thành thủ môn chính của đội mặc dù anh chỉ mới 18 tuổi. Anh đã tỏa sáng với những pha cứu thua trong chiến thắng 1-0 trước Juventus. Tại trận tranh siêu cúp Ý gặp chính Juventus, Donnarumma đã xuất sắc cản phá thành công pha đá luân lưu của Dybala bên phía Juve, qua đó góp công lớn đem về danh hiệu Siêu cúp cho Milan, đó cũng là danh hiệu đầu tiên của Montella và là danh hiệu duy nhất trong 5 năm qua Milan đạt được.
Tháng 4/2017 AC Milan có sự thay đổi lớn ở thượng tầng khi sau khi bị Silvio Berlusconi bán 99.93% cổ phần cho Rossoneri Sport Investment Lux của Li YongHong. Tuy nhiên để đầu tư vào thương vụ này, Li YongHong đã phải mượn tiền của tập đoàn Elliot. Sau hơn 1 năm, đến tháng 7/2018, do Li YongHong không thể thanh toàn khoản nợ này nên phải đem toàn bộ cổ phần giao cho Ellliot. Vị trí chủ tịch cũng được chuyển giao cho Paolo Scaroni. Vị trí Giám đốc phát triển và chiến lược thể thao được giao cho Paolo Maldini.
Milan đủ điều kiện tham dự vòng bảng UEFA Europa League 2018-19 khi là đội đứng thứ sáu tại Serie A mùa giải 2017-18, nhưng ban đầu bị UEFA cấm thi đấu ở châu Âu do vi phạm các quy định của Luật cân bằng tài chính vì không hòa vốn. Milan đã kháng cáo lên Tòa án Trọng tài Thể thao và không thành công vào ngày 20 tháng 7 năm 2018. Vào ngày 28 tháng 6 năm 2019, Milan tiếp tục bị cấm thi đấu tại Europa League vì vi phạm các quy định của Luật cân bằng tài chính trong các năm 2014–2017 và 2015–2018.
Nửa cuối mùa giải 2019-2020, Milan đón chào sự trở lại của Zlatan Ibrahimovic. Sự tăng cường lực lượng này giúp Milan kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 6 và giành được một suất tham gia Europa League 2020-2021.
2.7. Mùa giải 2020 đến nay
Milan của mùa giải 2020-2021 là sự kết hợp giữa lão tướng Ibrahimovic và các cầu thủ trẻ. Họ đã thi đấu rất tốt ở giai đoạn nửa đầu mùa giải. Lần đầu tiên sau nhiều năm Milan có thể đánh bại đại kình địch cùng thành phố Inter, để vươn lên dẫn đầu Serie A trong nhiều vòng đấu. Mặc dù không có phong độ quá tốt ở giai đoạn lượt về. Nhưng AC Milan cũng có những chiến thắng ấn tượng ở hai trận đấu lượt về với những đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Juventus và Atalanta nên đã giành được vị trí thứ 2 chung cuộc và giành được vé dự Champions League sau nhiều năm vắng bóng.
Ở mùa giải 2021/22, AC Milan lên ngôi vô địch Serie A với 86 điểm, hơn đội đứng thứ 2 là Inter Milan 2 điểm. Trong khi đó, ở đấu trường châu lục, đội bóng nước Ý phải dừng bước ngay tại vòng bảng UEFA Champions League với vị trí bét bảng.
Sang mùa 2022/23, AC Milan thi đấu xuất sắc khi lọt vào tới bán kết Cúp C1 và phải dừng bước trước đội bóng cùng thành phố là Inter Milan với tổng tỷ số 0-3. Ở giải quốc nội, họ chỉ về đích ở vị trí thứ 4 và kém đội vô địch Serie A là Napoli tận 20 điểm.
3. Màu sắc và trang phục
3.1. Logo, linh vật và nhà tài trợ
Tài trợ chính thức
- 1980-1982: Pooh Jeans
- 1982-1983: Hitachi
- 1983-1984: Olio Cuore
- 1984-1984: Rete 4
- 1984-1985: Oscar Mondadori
- 1985-1987: Fotorex
- 1987-1992: Mediolanum
- 1992-1994: Motta
- 1994-2006: Opel
- 2006-2010: Bwin
- 2010-nay: Fly Emirates
- 1978-1980: Adidas
- 1980-1982: Linea Milan
- 1982-1984: NR
- 1984-1985: Rolly Go
- 1985-1986: Gianni Rivera
- 1986-1990: Kappa
- 1990-1993: Adidas
- 1993-1998: Lotto
- 1998-2018: Adidas
- 2018-nay: Puma
Trong nhiều năm, biểu trưng của câu lạc bộ chỉ đơn giản là lá cờ trắng với chữ thập đỏ, biểu tượng của thành phố Milano. Biểu trưng hiện tại của câu lạc bộ là huy hiệu hình bầu dục gồm: phía trên là ba chữ viết tắt ACM, phía dưới là năm thành lập 1899, còn vòng tròn ở giữa lại chia thành- bên trái là sọc đỏ đen tượng trưng cho màu áo chính thức, bên phải là chữ thập đỏ nền trắng tượng trưng cho lá cờ của thành phố Milano. Phía trên logo thường có 1 ngôi sao vàng mang ý nghĩa Câu lạc bộ đã giành được 10 chức vô địch Serie A trở lên.
Từ ngày 16 tháng 2 năm 2006, Milan có linh vật (mascot) chính thức được hãng Warner Bros thiết kế, đó là một con quỷ đỏ mặc bộ trang phục truyền thống của câu lạc bộ AC Milan với sọc đỏ và đen, và một quả bóng, tên của linh vật này là Milanello, nhằm thể hiện sự tri ân, kính trọng của câu lạc bộ với sự đóng góp, công đào tạo nên các cầu thủ trẻ cho đội hình 1 của Milan của trung tâm thể thao Milanello.
4. Sân nhà
Sân vận động mà Milan thi đấu được gọi là Stadio Giuseppe Meazza, cũng được biết đến với tên San Siro (sân này ở trong quận "San Siro"). Sân được xây dựng vào tháng 12 năm 1925 theo mong muốn của Piero Pirelli, chủ tịch AC Milan. Sân được khánh thành vào ngày 19 tháng 9 sau 1 năm khởi công, và mở màn là 1 trận Derby Milano, trận đấu đã kết thúc với tỷ số 6-3 nghiêng về Inter. Hội đồng thành phố Milan mua lại SVĐ vào năm 1935, và 4 năm sau nó được nâng cấp thêm 15.000 chỗ ngồi. Đội tuyển Anh là những khách mời danh dự cho buổi ra mắt sân sau khi sửa chữa vào ngày 13/5/1939.
Inter trở thành đồng sở hữu sân với Milan vào năm 1947, và hai đội vẫn chung “nhà” kể từ đó cho tới nay. Một thập kỷ sau ngày Nerazzurri giành nửa quyền sở hữu San Siro, các bộ đèn pha được lắp đặt để phục vụ các trận đấu thuộc đấu trường châu Âu. Vào năm 1955, sân được mở rộng lên đến 50,000 chỗ ngồi.
Trước đây nó chỉ được biết đến với cái tên San Siro, tên mới được đặt vào năm 1980 sau khi Giuseppe Meazza qua đời. Meazza là một cầu thủ nổi tiếng của Internazionale trong thập niên 1930 và cũng đã từng thi đấu cho A.C. Milan trong một thời gian ngắn. Với vai trò là một cầu thủ, ông đã giành hai chức vô địch World Cup khi khoác áo tuyển Ý (vào các năm 1934 và 1938), cùng với Giovanni Ferrari trở thành một trong hai cầu thủ Ý duy nhất đoạt chức vô địch FIFA World Cup hai lần.
Để chuẩn bị cho World Cup 1990, tầng 3 khán đài đã được xây thêm, nâng tổng sức chứa của sân lên 87.500 chỗ, đồng thời tất cả khán đài được lắp ghế. 11 tòa tháp bên ngoài sân được bổ sung năm 1987, 4 trong số đó nằm ở 4 góc để nâng đỡ mái che.
Vào năm 2016, sân được chọn để đăng cai tổ chức trận chung kết UEFA Champions League năm 2016[90]. Giuseppe Meazza là sân vận động được tiêu chuẩn UEFA đánh giá là một trong nhũng sân vận động ưu tú bậc nhất châu Âu.
Tháng 6/2019, AC Milan và Inter Milan thống nhất sẽ cùng nhau xây dựng một sân vận động mới ở ngay bên cạnh sân Giuseppe Meazza, dự kiến hoàn thành vào năm 2022. Đến khi sân vận động mới hoàn thành thì sân Giuseppe Meazza sẽ bị phá bỏ.
5. Thương hiệu
6. Cổ động viên
7. Trụ sở
8. Trung tâm thể thao Milanello
9. Kình địch
9.1. Ở Italia
9.1.1. Derby della Madonnina
9.1.2. Cạnh tranh với Juventus
9.2. Cup châu Âu
10. Đội hình hiện tại
10.1. Đội hình chính thức
- 16 - Mike Maignan
- 1 - Ciprian Tatarusanu
- 77 - Devis Vásquez
- 83 - Antonio Mirante
- 23 - Fikayo Tomori
- 20 - Pierre Kalulu
- 46 - Matteo Gabbia
- 28 - Malick Thiaw
- 24 - Simon Kjaer
- 19 - Theo Hernández
- 5 - Fodé Ballo-Touré
- 2 - Davide Calabria (đội trưởng)
- 21 - Sergiño Dest
- 25 - Alessandro Florenzi
- 8 - Sandro Tonali
- 4 - Ismaël Bennacer
- 14 - Tiemoué Bakayoko
- 32 - Tommaso Pobega
- 40 - Aster Vranckx
- 33 - Rade Krunic
- 90 - Charles De Ketelaere
- 10 - Brahim Díaz
- 7 - Yacine Adli
- 17 - Rafael Leão
- 12 - Ante Rebic
- 56 - Alexis Saelemaekers
- 30 - Junior Messias
- 27 - Divock Origi
- 9 - Olivier Giroud
- 11 - Zlatan Ibrahimović
- 79 - Emil Roback
11. Đội tuyển trẻ
Tuyến trẻ (settore giovanile) của Milan bao gồm nhiều đội bóng ở các lứa tuổi trẻ thi đấu cho các giải Primavera (U-20 hạng nhất), Campionato Berretti (U-20 hạng C), Allievi Nazionali và Allievi Regionali (U-16), Giovanissimi Nazionali, Giovanissimi Regionali và hạng C (U-15), Esordienti (thiếu niên) và Pulcini (thiếu nhi). Milan còn có 5 trường dạy bóng đá (Scuole Calcio) tại Milano và nhiều cơ sở hợp tác đào tạo bóng đá trẻ khác. Tất cả các đội trẻ của Milan đều tập luyện tại trung tâm thể thao Vismara thuộc khu Gratosoglio của Milano, duy nhất đội Primavera được tập luyện cùng đội hình 1 của Milan tại trung tâm thể thao Milanello.
12. Thành viên nổi bật
12.1. Số áo vinh danh
- 3 - Paolo Maldini - Ý (giai đoạn 1985-2009)*
- 6 - Franco Baresi - Ý (giai đoạn 1978-1997)
12.2. Phòng danh dự
- Demetrio Albertini - Ý
- José Altafini - Brasil, Ý
- Carlo Ancelotti - Ý
- Roberto Baggio - Ý
- Franco Baresi - Ý
- Oliver Bierhoff - Đức
- Zvonimir Boban - Croatia
- Ruben Buriani - Ý
- Cafu - Brasil
- Fabio Capello - Ý
- Alessandro Costacurta - Ý
- Fabio Cudicini - Ý
- Marcel Desailly - Pháp
- Dida - Brasil
- Roberto Donadoni - Ý
- Alberigo Evani - Ý
- Filippo Galli - Ý
- Giovanni Galli - Ý
- Gunnar Gren - Thụy Điển
- Ruud Gullit - Hà Lan
- Filippo Inzaghi - Ý
- Leonardo - Brasil
- Nils Liedholm - Thụy Điển
- Giovanni Lodetti - Ý
- Aldo Maldera - Ý
- Cesare Maldini - Ý
- Daniele Massaro - Ý
- Gunnar Nordahl - Thụy Điển
- Pierino Prati - Ý
- Luigi Radice - Ý
- Frank Rijkaard - Hà Lan
- Gianni Rivera - Ý
- Roberto Rosato - Ý
- Sebastiano Rossi - Ý
- Ronaldinho - Brasil
- Andrea Pirlo - Ý
- Rui Costa - Bồ Đào Nha
- Dino Sani - Brasil
- Dejan Savićević - Cộng hòa Liên bang Nam Tư
- Uruguay Ý Juan Alberto Schiaffino - Ý
- Karl-Heinz Schnellinger - Đức
- Serginho - Brasil
- Marco Simone - Ý
- Andriy Shevchenko - Ukraina
- Brasil Ý Angelo Benedicto Sormani - Ý
- Mauro Tassotti - Ý
- Giovanni Trapattoni - Ý
- Marco van Basten - Hà Lan
- Clarence Seedorf - Hà Lan
- Pietro Paolo Virdis - Ý
- George Weah - Liberia
- Paolo Maldini - Ý
- Alessandro Nesta - Ý
- Ricardo Kaká - Brasil
12.3. Đội trưởng
- Herbert Kilpin - Anh (1899-1907)
- Gerolamo Radice - Ý (1908-1909)
- Guido Moda - Ý (1909-1910)
- Max Tobias - Bỉ (1910-1911)
- Giuseppe Rizzi - Ý (1911-1913)
- Louis Van Hege - Bỉ (1913-1915)
- Marco Sala - Ý (1915-1916)
- Aldo Cevenini - Ý (1916-1919)
- Alessandro Scarioni - Ý (1919-1921)
- Cesare Lovati - Argentina, Ý (1921-1922)
- Francesco Soldera - Ý (1922-1924)
- Pietro Bronzini - Ý (1924-1926)
- Gianangelo Barzan - Ý (1926-1927)
- Abdon Sgarbi - Ý (1927-1929)
- Alessandro Schienoni - Ý (1929-1930)
- Mario Magnozzi - Ý (1930-1933)
- Carlo Rigotti - Ý (1933-1934)
- Giuseppe Bonizzoni - Ý (1934-1936)
- Luigi Perversi - Ý (1936-1939)
- Giuseppe Bonizzoni - Ý (1939-1940)
- Bruno Arcari - Ý (1940-1941)
- Giuseppe Meazza - Ý (1941-1942)
- Giuseppe Antonini - Ý (1942-1944)
- Paolo Todeschini - Ý (1944-1945)
- Giuseppe Antonini - Ý (1945-1949)
- Andrea Bonomi - Ý (1949-1952)
- Carlo Annovazzi - Ý (1952-1953)
- Omero Tognon - Ý (1953-1954)
- Gunnar Nordahl - Thụy Điển (1954-1956)
- Nils Liedholm - Thụy Điển (1956-1961)
- Francesco Zagatti - Ý (1961)
- Cesare Maldini - Ý (1961-1966)
- Gianni Rivera - Ý (1966-1975)
- Romeo Benetti - Ý (1975-1976)
- Gianni Rivera - Ý (1976-1979)
- Albertino Bigon - Ý (1979-1980)
- Aldo Maldera - Ý (1980-1981)
- Fulvio Collovati - Ý (1981-1982)
- Franco Baresi - Ý (1982-1997)
- Paolo Maldini - Ý (1997-2009)
- Massimo Ambrosini - Ý (2009-2013)
- Riccardo Montolivo - Ý (2013-2017)
- Leonardo Bonucci (2017-2018)
- Alessio Romagnoli (2018-2022)
- Davide Calabria (2022-nay)
12.4. Cầu thủ vô địch thế giới
- Pietro Arcari - Ý (World Cup 1934)
- Franco Baresi - Ý (World Cup 1982)
- Fulvio Collovati - Ý (World Cup 1982)
- Marcel Desailly - Pháp (World Cup 1998)
- Roque Júnior - Brasil (World Cup 2002)
- Gennaro Gattuso - Ý (World Cup 2006)
- Alberto Gilardino - Ý (World Cup 2006)
- Filippo Inzaghi - Ý (World Cup 2006)
- Alessandro Nesta -Ý (World Cup 2006)
- Andrea Pirlo - Ý (World Cup 2006)
12.5. Cầu thủ vô địch châu lục
12.5.1. Châu Âu
- Angelo Anquilletti - Ý (Euro 1968)
- Giovanni Lodetti -Ý (Euro 1968)
- Pierino Prati Ý (Euro 1968)
- Gianni Rivera Ý (Euro 1968)
- Roberto Rosato Ý (Euro 1968)
- Ruud Gullit - Hà Lan (Euro 1988)
- Marco van Basten -Hà Lan (Euro 1988)
- Gianluigi Donnarumma (Euro 2020)
12.5.2. Nam Mỹ
- Lucas Paquetá (Brasil 2019)
12.5.3. châu Phi
- Fodé Ballo-Touré (Cameroon 2021)
12.6. Cúp Liên đoàn các châu lục
13. Chủ tịch và Huấn luyện viên
13.1. Các đời chủ tịch
Tên chủ tịch | Năm |
Alfred Edwards | 1899–1909 |
Piero Pirelli | 1909–1928 |
Luigi Ravasco | 1928–1930 |
Mario Bernazzoli | 1930–1933 |
Chairman Commission | 1933 |
Luigi Ravasco | 1933–1935 |
Pietro Annoni | 1935–1936 |
Chairman Commission | 1936 |
Emilio Colombo | 1936–1939 |
Achille Invernizzi | 1939–1940 |
Chairman Commission | 1940–1945 |
Umberto Trabattoni | 1945–1954 |
Andrea Rizzoli | 1954–1963 |
Felice Riva | 1963–1965 |
Chairman Commission | 1965–1966 |
Franco Carraro | 1967–1971 |
Federico Sordillo | 1971–1972 |
Albino Buticchi | 1972–1975 |
Bruno Pardi | 1975–1976 |
Vittorio Duina | 1976–1977 |
Felice Colombo | 1977–1980 |
Gaetano Morazzoni | 1980–1982 |
Giuseppe Farina | 1982–1986 |
Rosario Lo Verde | 1986 |
Silvio Berlusconi | 1986–2004 |
Chairman Commission | 2004–2006 |
Silvio Berlusconi | 2006–2008 |
Chairman Commission | 2008–2012 |
Silvio Berlusconi (chủ tịch danh dự) | 2012–2017 |
Li Yonghong | 2017–2018 |
Paolo Scaroni | 2018– |
13.2. Các đời huấn luyện viên
Tên | Quốc tịch | Năm |
Herbert Kilpin | Anh | 1900–1908 |
Daniele Angeloni | Ý | 1906–1907 |
Technical Commission | Ý | 1907–1910 |
Giovanni Camperio | Ý | 1910–1911 |
Technical Commission | Ý | 1911–1914 |
Guido Moda | Ý | 1915–1922 |
Ferdi Oppenheim | Áo | 1922–1924 |
Vittorio Pozzo | Ý | 1924–1926 |
Guido Moda | Ý | 1926 |
Herbert Burgess | Anh | 1926–1928 |
Engelbert König | Áo | 1928–1931 |
József Bánás | Hungary | 1931–1933 |
József Viola | Hungary | 1933–1934 |
Adolfo Baloncieri | Ý | 1934–1937 |
William Garbutt | Anh | 1937 |
Hermann Felsner | Áo | 1937–1938 |
József Bánás | Hungary | |
József Viola | Hungary | 1938–1940 |
Guido Ara | Ý | 1940–1941 |
Antonio Busini | Ý | |
Mario Magnozzi | Ý | 1941–1943 |
Giuseppe Santagostino | Ý | 1943–1945 |
Adolfo Baloncieri | Ý | 1945–1946 |
Giuseppe Bigogno | Ý | 1946–1949 |
Lajos Czeizler | Hungary | 1949–1952 |
Gunnar Gren | Thụy Điển | 1952 |
Mario Sperone | Ý | 1952–1953 |
Béla Guttmann | Hungary | 1953–1954 |
Antonio Busini | Ý | 1954 |
Hector Puricelli | Uruguay | 1954–1956 |
Giuseppe Viani | Ý | 1957–1960 |
Paolo Todeschini | Ý | 1960–1961 |
Nereo Rocco | Ý | 1961–1963 |
Luis Carniglia | Argentina | 1963–1964 |
Nils Liedholm | Thụy Điển | 1963–1966 |
Giovanni Cattozzo | Ý | 1966 |
Arturo Silvestri | Ý | 1966–1967 |
Nereo Rocco | Ý | 1967–1972 |
Cesare Maldini | Ý | 1973–1974 |
Giovanni Trapattoni | Ý | 1974 |
Gustavo Giagnoni | Ý | 1974–1975 |
Nereo Rocco | Ý | 1975 |
Paolo Barison | Ý | 1975–1976 |
Giovanni Trapattoni | Ý | 1976 |
Giuseppe Marchioro | Ý | 1976–1977 |
Nereo Rocco | Ý | 1977 |
Nils Liedholm | Thụy Điển | 1977–1979 |
Massimo Giacomini | Ý | 1979–1981 |
Italo Galbiati | Ý | 1981 |
Luigi Radice | Ý | 1981–1982 |
Italo Galbiati | Ý | 1982 |
Francesco Zagatti | Ý | 1982 |
Ilario Castagner | Ý | 1982–1984 |
Italo Galbiati | Ý | 1984 |
Nils Liedholm | Thụy Điển | 1984–1987 |
Fabio Capello | Ý | 1987 |
Arrigo Sacchi | Ý | 1987–1991 |
Fabio Capello | Ý | 1991–1996 |
Óscar Tabárez | Uruguay | 1996 |
Giorgio Morini | Ý | |
Arrigo Sacchi | Ý | 1996–1997 |
Fabio Capello | Ý | 1997–1998 |
Alberto Zaccheroni | Ý | 1998–2001 |
Cesare Maldini |
Ý | 2001 |
Mauro Tassotti | ||
Fatih Terim | Thổ Nhĩ Kỳ | |
Antonio Di Gennaro | Ý | |
Carlo Ancelotti | Ý | 2001–2009 |
Leonardo | Brasil | 2009–2010 |
Massimiliano Allegri | Ý | 2010–2014 |
Mauro Tassotti (tạm quyền) | Ý | 2014 |
Clarence Seedorf | Hà Lan | 2014 |
Filippo Inzaghi | Ý | 2014–2015 |
Siniša Mihajlović | Serbia | 2015–2016 |
Cristian Brocchi | Ý | 2016 |
Vincenzo Montella | Ý | 2016–2017 |
Gennaro Gattuso | Ý | 2017–2019 |
Marco Giampaolo | Ý | 2019 |
Stefano Pioli | Ý | 2019-nay |
14. Thống kê và thành tích
14.1. Thống kê
15. Danh hiệu
Milan là một trong những câu lạc bộ thành công nhất tại Ý, đã giành tổng cộng 29 danh hiệu lớn, và là một trong những câu lạc bộ thành công nhất trên thế giới về danh hiệu quốc tế cho đến tháng 2 năm 2014. Milan bây giờ là câu lạc bộ thứ ba thành công nhất sau Real Madrid và Al Ahly với kỷ lục 14 danh hiệu châu Âu và bốn danh hiệu thế giới. Milan đã giành được quyền đặt một ngôi sao trên áo với biểu trưng công nhận rằng họ đã giành được hơn mười Scudetto. Ngoài ra, câu lạc bộ được vĩnh viễn được in một huy hiệu đại diện cho người chiến thắng trên áo khi đã giành được nhiều hơn năm chức vô địch cúp châu Âu.
15.1. Danh hiệu chính thức
15.1.1. Quốc gia
- 1900-01, 1905-06, 1906-07, 1950-51, 1954-55, 1956-57, 1958-59, 1961-62, 1967-68, 1978-79 Ngôi sao Scudetto (vô địch lần thứ 10)
- 1987-88, 1991-92, 1992-93, 1993-94, 1995-96, 1998-99, 2003-04, 2010-11, 2021–22
- 1966-67, 1971-72, 1972-73, 1976-77, 2002-03
- 1988, 1992, 1993, 1994, 2004, 2011, 2016
- 1980–81, 1982–83
15.1.2. Quốc tế
- 1962-63, 1968-69, 1988-89, 1989-90, 1993-94, 2002-03, 2006-07
- 1967-68, 1972-73
- 1989; 1990; 1994; 2003; 2007
- 1969; 1989; 1990
- 2007
15.2. Chuyển nhượng
Bóng đá Ý vốn nổi tiếng bởi các hậu vệ và nghệ thuật phòng ngự, nên vấn đề hàng thủ cũng được Berlusconi chăm chút. Ông đã chi ra đến hơn 30 triệu euro để lấy đi hậu vệ tốt nhất của câu lạc bộ Lazio, trung vệ Alessandro Nesta. Kết hợp cùng với cầu thủ do chính câu lạc bộ đào tạo Paolo Maldini, cả hai đều trở thành trung tâm hàng phòng ngự cho cả Milan lẫn tuyển Ý. Cùng với Maldini, Nesta đã giúp Milan vô địch châu Âu vào năm 2003, mùa giải đầu tiên mà anh khoác lên mình màu áo của Rossoneri.
15.2.1. 10 bản hợp đồng mua về đắt giá nhất
STT | Cầu thủ | Chi phí | Từ |
1 | Bồ Đào Nha Rui Costa | €50,000,000 | Fiorentina |
2 | Ý Leonardo Bonucci | €42,000,000 | Juventus |
3 | Bồ Đào Nha André Silva | €38,000,000 | Porto |
4 | Ý Alessandro Nesta | €33,000,000 | Lazio |
5 | Colombia Carlos Bacca | €30,000,000 | Sevilla |
6 | Ý Filippo Inzaghi | €28,500,000 | Juventus |
7 | Ý Andrea Bertolacci | €25,000,000 | Roma |
8 | Ý Alberto Gilardino | €25,000,000 | Parma F.C. |
9 | Thụy Điển Zlatan Ibrahimović | €24,000,000 | Barcelona |
10 | Ý Andrea Conti | €24,000,000 | Atalanta |
15.2.2. 10 bản hợp đồng bán đi đắt giá nhất
STT | Cầu thủ | Chi phí | Đến |
1 | Brasil Ricardo Kaká | €65,000,000 | Real Madrid |
2 | Ukraina Andriy Shevchenko | €43,000,000 | Chelsea |
3 | Brasil Thiago Silva | €42,000,000 | Paris SG |
4 | Thụy Điển Zlatan Ibrahimović | €21,000,000 | Paris SG |
5 | Ý Mario Balotelli | €20,000,000 | Liverpool |
6 | Brasil Alexandre Pato | €15,000,000 | Corinthians |
7 | Pháp Yoann Gourcuff | €15,000,000 | Bordeaux |
8 | Ý Alberto Gilardino | €14,000,000 | Fiorentina |
9 | Hà Lan Klaas-Jan Huntelaar | €14,000,000 | Schalke 04 |
10 | Ý Stephan El Shaarawy | €13,000,000 | Roma |
15.3. Số liệu
15.3.1. Danh sách cầu thủ khoác áo nhiều nhất
STT | Tên | Giai đoạn | Số trận |
1 | Paolo Maldini - Ý | 1984 - 2009 | 902 |
2 | Ý Franco Baresi - Ý | 1977 - 1997 | 719 |
3 | Alessandro Costacurta - Ý | 1986 - 2007 | 663 |
4 | Gianni Rivera - Ý | 1960 - 1979 | 658 |
5 | Mauro Tassotti - Ý | 1980 - 1997 | 583 |
6 | Massimo Ambrosini - Ý | 1995 - 2013 | 489 |
7 | Gennaro Gattuso - Ý | 1999 - 2012 | 468 |
8 | Clarence Seedorf - Hà Lan | 2002 - 2012 | 432 |
9 | Ý Angelo Anquilletti - Ý | 1966 - 1977 | 418 |
10 | Ý Cesare Maldini - Ý | 1954 - 1966 | 412 |
15.3.2. Danh sách cầu thủ ghi bàn nhiều nhất
STT | Tên | Giai đoạn | Bàn thắng |
1 | Gunnar Nordahl - Thụy Điển | 1949 - 1956 | 221 |
2 | Ukraina Andriy Shevchenko | 1999 - 2009 | 175 |
3 | Gianni Rivera - Ý | 1960 - 1979 | 164 |
4 | José Altafini - Brasil | 1958 - 1965 | 161 |
5 | Aldo Boffi - Ý | 1936 - 1945 | 131 |
6 | Filippo Inzaghi - Ý | 2001 - 2012 | 126 |
7 | Marco van Basten - Hà Lan | 1987 - 1995 | 124 |
8 | Giuseppe Agostino - Ý | 1921 - 1932 | 106 |
9 | Kaká - Brasil | 2003 - 2014 | 104 |
10 | ierino Prati - Ý | 1966 - 1973 | 102 |