Thống tin tiểu sử cầu thủ Jordi Alba
Jordi Alba là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Tây Ban Nha hiện đang chơi cho câu lạc bộ Inter Miami tại giải nhà nghề Mỹ MLS
- 1. Cầu thủ Jordi Alba là ai và thông tin tiểu sử cơ bản
- 2. Sự nghiệp của Jordi Alba
- 2.1 Sự nghiệp câu lạc bộ
- 2.1.1 Tuổi trẻ
- 2.1.2 Valencia 2009-2012
- 2.1.3 Barcelona 2012- 2023
- 2.1.4 Inter Miami 2023-
- 2.1.5 Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
- 2.2 Sự nghiệp thi đấu ĐTQG
- 2.2.1 Thống kê sự nghiệp ĐTQG
- 2.2.2 Thống kê bàn thắng ĐTQG
- 3. Thống kê danh hiệu đạt được
- 3.1 Barcelona
- 3.2 Inter Miami
- 3.3 ĐT quốc gia Spain
- 3.4 Danh hiệu cá nhân
Thông tin bài được tham khảo từ trang wikipedia.
1. Cầu thủ Jordi Alba là ai và thông tin tiểu sử cơ bản
- Họ và tên: Jordi Alba Ramos
- Ngày tháng năm sinh: 21 tháng 3 năm 1989
- Quốc tịch: Tây Ban Nha
- Chiều cao: 1,70 m
- Vị trí: Hậu vệ trái
- Số áo: 18
Jordi Alba Ramos (sinh 21 tháng 3 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Tây Ban Nha hiện đang chơi cho câu lạc bộ Inter Miami tại giải nhà nghề Mỹ MLS. Jordi Alba là mẫu Hậu vệ cánh toàn diện, có khả năng lên công về thủ rất tốt với tốc độ, kỹ thuật cá nhân thượng hạng.
2. Sự nghiệp của Jordi Alba
2.1 Sự nghiệp câu lạc bộ
2.1.1 Tuổi trẻ
Alba sinh ra tại L'Hospitalet de Llobregat , Barcelona , Catalonia . Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại đội trẻ của Barcelona với tư cách là một cầu thủ chạy cánh trái , nhưng đã bị câu lạc bộ sa thải vào năm 2005 vì quá nhỏ. Sau đó, anh gia nhập câu lạc bộ lân cận Cornellà và sau gần hai năm, anh rời đi với mức chuyển nhượng 6.000 euro đến Valencia , nơi anh hoàn thành chương trình đào tạo bóng đá của mình.
Sau khi giúp đội dự bị giành quyền thăng hạng từ Tercera División vào mùa giải 2007–08 , Alba đã chơi theo dạng cho mượn tại câu lạc bộ Segunda División Gimnàstic Tarragona vào mùa giải tiếp theo , nơi anh đã có 22 lần ra sân.
2.1.2 Valencia 2009-2012
Sau khi trở lại Los Che , Alba ra mắt La Liga vào ngày 13/9/2009, trong chiến thắng 4–2 trước Real Valladolid . Sau đó, anh bắt đầu trong hai trận đấu vòng bảng UEFA Europa League liên tiếp , gặp Lille và Slavia Prague (cả hai đều hòa 1–1, lần lượt là sân khách và sân nhà ).
Do liên tục bị chấn thương ở hàng phòng ngự của Valencia, anh đã chơi phần lớn mùa giải 2009–10 ở vị trí hậu vệ trái , đạt thành tích chung tốt. Ở vị trí đó, vào ngày 11/4/2010, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, trong trận thua 2–3 trên sân khách trước Mallorca .
Trong mùa giải 2010–11 , khi Unai Emery vẫn còn nắm quyền, Alba hầu như luôn được sử dụng như một hậu vệ, cạnh tranh cho vị thế lựa chọn đầu tiên với Jérémy Mathieu . Anh đã có 27 lần ra sân ở giải đấu khi đội bóng một lần nữa về đích ở vị trí thứ ba, sau đó đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League 2011–12 .
Trong chiến dịch tiếp theo , Emery bắt đầu sử dụng cả hai cầu thủ ở cánh trái của Valencia, một chiến lược mà ông đã thử nghiệm vào mùa giải trước. Điều này chứng tỏ là một chiến thuật hiệu quả vì Alba và Mathieu thường xuyên hoán đổi vị trí và hỗ trợ nhau ở cả khu vực tấn công và phòng ngự; cuối cùng, cầu thủ này đã ghi nhận người quản lý là "người chủ chốt" trong quá trình chuyển đổi thành công của anh ấy sang vai trò phòng ngự nhiều hơn.
2.1.3 Barcelona 2012- 2023
Vào ngày 28/6/2012, Alba đã ký hợp đồng 5 năm với Barcelona với mức phí chuyển nhượng là 14 triệu euro. Anh ấy đã ra mắt chính thức vào ngày 19/8, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 5–1 trên sân nhà trước Real Sociedad .
Alba ghi bàn thắng đầu tiên cho Blaugrana vào ngày 20/10/2012, bàn mở tỷ số trong chiến thắng 5–4 trước Deportivo La Coruña , và ghi một bàn phản lưới nhà . Trong trận đấu tiếp theo, trên sân nhà trước Celtic ở vòng bảng Champions League , anh đã ghi bàn ở phút thứ 93 trong chiến thắng 2–1.
Vào ngày 12/3/2013, Alba ghi bàn thắng thứ năm của mình trong chiến dịch, ghi bàn vào phút cuối cùng để hoàn thành chiến thắng 4–0 trên sân nhà của Barcelona trước AC Milan ở vòng 16 đội Champions League sau thất bại 0–2 ở lượt đi tại San Siro , khi đội của anh trở thành đội đầu tiên trong lịch sử giải đấu lật ngược được thế trận như vậy. Anh kết thúc mùa giải đầu tiên của mình tại Barcelona với tư cách là nhà vô địch giải đấu , khi đội của Tito Vilanova giành lại danh hiệu từ Real Madrid .
Vào ngày 2/6/2015, Alba đã đồng ý ký một hợp đồng mới có thời hạn 5 năm với điều khoản mua lại mới là 150 triệu euro. Bốn ngày sau, anh bắt đầu trận chung kết Champions League , giúp câu lạc bộ giành chiến thắng thứ năm tại giải đấu bằng cách đánh bại Juventus với tỷ số 3–1 tại Olympiastadion của Berlin . Anh đã có 38 lần ra sân trên mọi đấu trường, ghi một bàn thắng, khi Barça giành cú ăn ba .
Vào ngày 22/5/2016, Alba đã giành được Copa del Rey thứ hai trong sự nghiệp của mình, ghi bàn ở phút thứ 97 của trận chung kết với Sevilla sau đường chuyền của Lionel Messi , trong chiến thắng 2–0 trong hiệp phụ tại Vicente Calderón ở Madrid .
Cầu thủ Jordi Alba |
Vào ngày 11/3/2019, Alba đã đồng ý ký một hợp đồng mới có thời hạn 5 năm với điều khoản mua lại mới là 500 triệu euro.
Alba đã bỏ lỡ 50% số trận đấu trong mùa giải 2019–20 , bỏ lỡ 12 trong số 24 trận đấu, do chấn thương gân kheo và chấn thương cơ.
Alba có màn trình diễn tốt nhất của mình trong mùa giải 2020–21 khi anh ghi được 5 bàn thắng và 13 pha kiến tạo trên mọi đấu trường khi giành chức vô địch Copa del Rey cùng câu lạc bộ của mình.
Vào ngày 9/8/2021, Jordi Alba được công bố là đội trưởng thứ 4 của Barcelona sau khi đội trưởng Lionel Messi rời câu lạc bộ trước mùa giải 2021–22 .
Vào ngày 24/5/2023, có thông báo rằng Alba sẽ rời Barcelona vào cuối mùa giải 2022–23, sau khi cầu thủ này và câu lạc bộ đạt được thỏa thuận chấm dứt hợp đồng sớm hơn một năm so với thời hạn hết hạn.
2.1.4 Inter Miami 2023-
Vào ngày 20/7/2023, Inter Miami thông báo đã ký hợp đồng với Alba có thời hạn một năm rưỡi, với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Bài thuyết trình của anh ấy diễn ra ngay trước khi anh ấy ra mắt câu lạc bộ vào ngày 3/8 trong trận play-off Leagues Cup gặp Orlando City , vào sân trong hiệp hai để giúp đội của anh ấy giành chiến thắng 3–1.
Vào ngày 15/8, anh ấy đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong trận bán kết Leagues Cup gặp Philadelphia Union trong chiến thắng 4–1. Anh ấy sẽ tiếp tục và giành chức vô địch đầu tiên của mình với câu lạc bộ vào ngày 20/8 khi Inter Miami đánh bại Nashville SC trong trận chung kết Leagues Cup 2023 sau loạt sút luân lưu.
Vào ngày 7/9, Alba đã ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải thường xuyên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 3–1 trước Los Angeles FC .
Vào ngày 3/10/2024, Jordi Alba giành danh hiệu Supporters’ Shield 2024 cùng Inter Miami,với 2 bàn thắng của Messi cùng 1 bàn của Luis Suárez. Supporters' Shield là giải thưởng được trao cho đội bóng tại MLS có thành tích tốt nhất ở giai đoạn vòng bảng 34 trận.
2.1.5 Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
Cập nhật đến ngày 05/11/2024...
CLB | Mùa giải | League | Cup | Continental | Khác | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Division | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | ||
Cornellà | 2006–07 | Primera Catalana | 15 | 3 | — | — | — | 15 | 3 | |||
Gimnàstic (mượn) | 2008–09 | Segunda División | 35 | 4 | 1 | 0 | — | — | 36 | 4 | ||
Valencia | 2009–10 | La Liga | 15 | 1 | 2 | 0 | 9 | 0 | — | 26 | 1 | |
2010–11 | La Liga | 27 | 2 | 4 | 0 | 3 | 0 | — | 34 | 2 | ||
2011–12 | La Liga | 32 | 2 | 8 | 0 | 10 | 1 | — | 50 | 3 | ||
Tổng | 74 | 5 | 14 | 0 | 22 | 1 | — | 110 | 6 | |||
Barcelona | 2012–13 | La Liga | 29 | 2 | 4 | 1 | 9 | 2 | 2 | 0 | 44 | 5 |
2013–14 | La Liga | 15 | 0 | 5 | 0 | 4 | 0 | 2 | 0 | 26 | 0 | |
2014–15 | La Liga | 27 | 1 | 6 | 1 | 11 | 0 | — | 44 | 2 | ||
2015–16 | La Liga | 31 | 0 | 3 | 1 | 9 | 0 | 2 | 0 | 45 | 1 | |
2016–17 | La Liga | 26 | 1 | 6 | 0 | 6 | 0 | 1 | 0 | 39 | 1 | |
2017–18 | La Liga | 33 | 2 | 5 | 1 | 8 | 0 | 2 | 0 | 48 | 3 | |
2018–19 | La Liga | 36 | 2 | 6 | 0 | 11 | 1 | 1 | 0 | 54 | 3 | |
2019–20 | La Liga | 27 | 2 | 3 | 0 | 5 | 0 | 1 | 0 | 36 | 2 | |
2020–21 | La Liga | 35 | 3 | 5 | 2 | 7 | 0 | 2 | 0 | 49 | 5 | |
2021–22 | La Liga | 30 | 2 | 2 | 0 | 11 | 1 | 1 | 0 | 44 | 3 | |
2022–23 | La Liga | 24 | 2 | 2 | 0 | 3 | 0 | 1 | 0 | 30 | 2 | |
Tổng | 313 | 17 | 47 | 6 | 84 | 4 | 15 | 0 | 459 | 27 | ||
Inter Miami | 2023 | MLS | 7 | 1 | 1 | 0 | — | 5 | 1 | 13 | 2 | |
2024 | MLS | 28 | 4 | — | 3 | 0 | 6 | 1 | 35 | 4 | ||
Tổng | 35 | 5 | 1 | 0 | 3 | 0 | 11 | 2 | 50 | 7 | ||
Tổng sự nghiệp | 471 | 34 | 63 | 6 | 109 | 5 | 26 | 2 | 670 | 47 |
2.2 Sự nghiệp thi đấu ĐTQG
Alba đại diện cho Tây Ban Nha tại Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu của UEFA năm 2008 , cũng như xuất hiện trong cả bốn trận đấu khi đất nước này giành huy chương vàng tại Đại hội thể thao Địa Trung Hải năm 2009. Anh cũng là một phần của đội tuyển tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới FIFA năm 2009 tại Ai Cập.
Alba được triệu tập lần đầu tiên vào đội tuyển quốc gia vào ngày 30/9/2011, cho hai trận vòng loại UEFA Euro 2012 cuối cùng với Cộng hòa Séc và Scotland . Anh ra mắt trước Scotland vào ngày 11/10, chiến thắng 3–1 tại Alicante , trong đó đường chuyền ngược từ cánh trái của anh đã kiến tạo cho bàn mở tỷ số, do đồng đội cũ ở Valencia là David Silva ghi .
Màn ra mắt ấn tượng của anh đã khẳng định vị thế là ứng cử viên sáng giá cho vị trí hậu vệ trái thường xuyên của Joan Capdevila cho La Roja , và anh cũng được đưa vào đội hình dưới 23 tuổi tham dự Thế vận hội mùa hè 2012 tại London .
Alba được Vicente del Bosque đưa vào đội hình tham dự vòng chung kết Euro 2012 tại Ba Lan và Ukraine, và chơi trong mọi trận đấu, khi Tây Ban Nha vô địch giải đấu. Anh đã chuyền bóng cho Xabi Alonso mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 ở tứ kết trước Pháp .
Trong trận chung kết với Ý , sau khi chạy đến đường chuyền của Xavi trong một pha phản công, anh đã ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 4–0.
Alba cũng được chọn tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục FIFA 2013 tại Brazil. Anh đã chơi bốn trận đấu trọn vẹn trong suốt giải đấu, ghi hai bàn trong chiến thắng 3–0 ở vòng bảng trước Nigeria .
Alba đã lọt vào đội hình của Del Bosque cho Giải vô địch bóng đá thế giới FIFA 2014 tại Brazil , và có ba lần ra sân khi nhà vô địch bảo vệ danh hiệu bị loại ở vòng bảng. Anh cũng được Julen Lopetegui nêu tên trong đội hình cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 tại Nga và đội hình 24 người của Luis Enrique cho Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020.
Sau khi đội trưởng Sergio Busquets vắng mặt vì dịch vi-rút corona , Alba được trao băng đội trưởng cho đến khi có thông báo mới. Alba được chọn vào đội tuyển Tây Ban Nha tại World Cup 2022 ở Qatar . Vào ngày 18/6/2023, anh đã làm đội trưởng của Tây Ban Nha để giành chức vô địch Nations League lần đầu tiên sau khi đánh bại Croatia với tỷ số 5–4 trên chấm luân lưu sau trận hòa không bàn thắng.
Việc Alba từ giã sự nghiệp quốc tế được công bố vào ngày 29/8/2023. Anh đã chơi 93 trận cho Tây Ban Nha, ghi được chín bàn thắng.
2.2.1 Thống kê sự nghiệp ĐTQG
National team | Year | Trận | Bàn Thắng |
---|---|---|---|
Spain | 2011 | 2 | 0 |
2012 | 13 | 2 | |
2013 | 9 | 3 | |
2014 | 9 | 0 | |
2015 | 6 | 1 | |
2016 | 11 | 0 | |
2017 | 8 | 2 | |
2018 | 9 | 0 | |
2019 | 3 | 0 | |
2020 | 0 | 0 | |
2021 | 10 | 0 | |
2022 | 11 | 1 | |
2023 | 2 | 0 | |
Tổng | 93 | 9 |
2.2.2 Thống kê bàn thắng ĐTQG
STT | Ngày | Địa Điểm | Đối Thủ | Bàn Thắng | Kết Quả | Giải Đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 1/7/2012 | Olympic Stadium, Kyiv, Ukraine | Ý | 2 - 0 | 4 - 0 | UEFA Euro 2012 |
2 | 12/10/2012 | Dynama Stadium, Minsk, Belarus | Belarus | 1 - 0 | 4 - 0 | 2014 FIFA World Cup qualification |
3 | 23/6/2013 | Castelão, Fortaleza, Brazil | Nigeria | 1 - 0 | 3 - 0 | 2013 FIFA Confederations Cup |
4 | 3 - 0 | |||||
5 | 6/9/2013 | Olympic Stadium, Helsinki, Phần Lan | Phần Lan | 1 - 0 | 2 - 0 | 2014 FIFA World Cup qualification |
6 | 5/9/2015 | Estadio Carlos Tartiere, Oviedo, Tây Ban Nha | Slovakia | 1 - 0 | 2 - 0 | UEFA Euro 2016 qualification |
7 | 11/11/2017 | La Rosaleda, Málaga, Tây Ban Nha | Costa Rica | 1 - 0 | 5 - 0 | Friendly |
8 | 14/11/2017 | Krestovsky Stadium, Saint Petersburg, Russia | Russia | 1 - 0 | 3 - 3 | Friendly |
9 | 24/9/2022 | La Romareda, Zaragoza, Tây Ban Nha | Thụy Sĩ | 1 - 1 | 1 - 2 | 2022 - 23 UEFA Nations League A |
3. Thống kê danh hiệu đạt được
3.1 Barcelona
- La Liga: 2012–13, 2014–15, 2015–16, 2017–18, 2018–19, 2022–23
- Copa del Rey: 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2020–21; runner-up: 2013–14, 2018–19
- Supercopa de España: 2013, 2016, 2018, 2023
- UEFA Champions League: 2014–15
- FIFA Club World Cup: 2015
3.2 Inter Miami
- Leagues Cup: 2023
- Spain U20
- Mediterranean Games: 2009
3.3 ĐT quốc gia Spain
- UEFA European Championship: 2012
- UEFA Nations League: 2022–23
- FIFA Confederations Cup runner-up: 2013
3.4 Danh hiệu cá nhân
- UEFA European Championship Team of the Tournament: 2012
- UEFA Champions League Team of the Season: 2014–15
- UEFA Champions League top assist provider: 2018–19
- La Liga Team of the Season: 2014–15
- ESM Team of the Year: 2017–18, 2018–19
- MLS All-Star: 2024