Thông tin tiểu sử Dani Parejo (sinh ngày 16 tháng 4 năm 1989) là tiền vệ trung tâm người Tây Ban Nha đang thi đấu cho CLB Villarreal tại La Liga.
Thông tin tham khảo trên trang Wikipedia
1. Tiểu sử cầu thủ Dani Parejo
Daniel Parejo Muñoz (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [daˈnjel ˈdani paˈɾexo]; sinh ngày 16 tháng 4 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha, chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Villarreal thuộc La Liga.
![]() |
Tiền vệ Dani Parejo |
Sau khi khởi đầu sự nghiệp tại Real Madrid, Parejo lần đầu tiên gây tiếng vang ở La Liga với Getafe. Chuyển đến Valencia vào năm 2011, anh đã ra sân trong 383 trận đấu chính thức cho câu lạc bộ này và giành Copa del Rey 2019. Anh cũng đã trải qua bốn tháng ở Anh với Queens Park Rangers.
Trên tất cả các cấp độ trẻ, Parejo đã có 43 lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha và ghi 9 bàn thắng. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào năm 2018, ở tuổi 28.
2. Sự nghiệp thi đấu
2.1. Sự nghiệp câu lạc bộ
Real Madrid
Sinh ra ở Coslada, Cộng đồng Madrid, Parejo là sản phẩm của học viện đào tạo trẻ Real Madrid, gia nhập khi mới 14 tuổi. Anh đã nhiều lần được huấn luyện viên đội một Bernd Schuster gọi lên tập luyện cùng các cầu thủ cấp cao và, trong mùa giải 2006–07, đã chơi bốn trận cho Real Madrid Castilla ở Segunda División.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 2008, Parejo ký hợp đồng cho mượn một năm với câu lạc bộ Queens Park Rangers ở Championship, và ra mắt năm ngày sau đó, vào sân từ băng ghế dự bị trong chiến thắng 2–1 trước Barnsley tại Loftus Road, tổng cộng có 18 lần ra sân chính thức. Vào ngày 17 tháng 12, Real Madrid chính thức triệu hồi cầu thủ này từ hợp đồng cho mượn có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, sau khi các tiền vệ đội một Rubén de la Red và Mahamadou Diarra đều phải nghỉ thi đấu trong mùa giải vì nhiều vấn đề thể chất khác nhau.
Parejo được trao số áo 17, trước đây thuộc về Ruud van Nistelrooy, người cũng phải nghỉ thi đấu vài tháng vì chấn thương nghiêm trọng. Anh ít xuất hiện trong mùa giải đó, trận đấu đầu tiên của anh là chiến thắng 4–0 trên sân khách tại La Liga trước Sporting de Gijón vào ngày 15 tháng 2 khi anh thay thế Sergio Ramos trong mười phút cuối cùng.
Getafe
Vào cuối tháng 7 năm 2009, khi Esteban Granero được mua lại từ Getafe CF, Parejo đi theo hướng ngược lại với Real, tương tự như trường hợp của Granero, có một lựa chọn tương tự. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2010, anh ghi bàn vào lưới câu lạc bộ cũ của mình sau khi cướp bóng từ thủ môn Iker Casillas, nhưng đội chủ nhà thua 4–2. Phải cạnh tranh một suất đá chính ở vị trí tiền vệ trung tâm với con trai của huấn luyện viên Míchel, Adrián – một đồng đội cũ ở Real Madrid B – anh vẫn đóng góp vững chắc trong mùa giải khi họ lần thứ hai trong lịch sử đủ điều kiện tham dự UEFA Europa League.
Parejo xuất hiện nhiều hơn vào mùa giải 2010–11 (36 trận), nhưng đội bóng ngoại ô Madrid chỉ suýt tránh được xuống hạng.
Valencia
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2011, Valencia CF đã ký hợp đồng với Parejo với mức phí được báo cáo là 6 triệu euro, với thủ môn không được trọng dụng Miguel Ángel Moyá chuyển đến Getafe theo dạng cho mượn một năm như một phần của thỏa thuận. Anh ra mắt giải đấu vào ngày 15 tháng 8, chơi 80 phút trong trận hòa 1–1 trên sân khách trước RCD Mallorca.
Parejo nhanh chóng bị coi là dư thừa tại câu lạc bộ mới của mình, tình hình của anh không được cải thiện ngay cả sau chấn thương nghiêm trọng của Sergio Canales, người chơi cùng vị trí với anh. Tuy nhiên, anh đã phục hồi trở lại vào mùa giải 2012–13, ghi hai bàn trong 36 trận đấu chính thức trong một mùa giải kết thúc ở vị trí thứ năm.
Trong những năm tiếp theo, Parejo là một cầu thủ đá chính không thể tranh cãi dưới nhiều huấn luyện viên khác nhau. Trong mùa giải 2014–15, mùa giải đầu tiên anh làm đội trưởng, anh đã ghi 12 bàn thắng kỷ lục trong sự nghiệp, trở thành một trong những cầu thủ ghi bàn tốt nhất trong giải đấu từ vị trí tiền vệ. Trong quá trình đó, anh cũng trở thành tiền vệ Valencia đầu tiên ghi mười bàn trở lên kể từ Vicente vào mùa giải 2003–04.
Parejo và Paco Alcácer mỗi người ghi hai bàn trong chiến thắng 5–1 trên sân khách trước RC Celta de Vigo đứng thứ ba vào ngày 7 tháng 11 năm 2015; bàn thắng đầu tiên của anh đến ngay trước giờ nghỉ giải lao, từ một quả đá phạt để đưa đội khách dẫn trước 2–1. Tuy nhiên, vào tháng 1, sau một chuỗi phong độ tệ hại, cựu cầu thủ này đã bị tước băng đội trưởng để ủng hộ cầu thủ sau bởi huấn luyện viên Gary Neville. Anh được phục hồi ở vị trí đó bởi Marcelino García Toral trước mùa giải 2017–18.
Parejo đã nâng cao chiếc cúp Copa del Rey vào ngày 25 tháng 5 năm 2019, sau chiến thắng 2–1 trước FC Barcelona trong trận chung kết.
Villarreal
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2020, Parejo gia nhập Villarreal CF theo dạng chuyển nhượng tự do và hợp đồng 4 năm. Anh chuyển đến đối thủ địa phương cùng với đồng đội Francis Coquelin, một động thái đã gây ra sự tức giận từ người hâm mộ Valencia đối với chủ tịch Peter Lim của họ.
Parejo đã giành Europa League trong mùa giải đầu tiên của mình tại Estadio de la Cerámica. Trong trận chung kết, anh đã thực hiện quả đá phạt mà Gerard Moreno kết thúc thành bàn cho Villarreal trong trận hòa 1–1 với Manchester United, và cũng ghi bàn trong loạt sút luân lưu 11–10.
2.2. Sự nghiệp đội tuyển Quốc gia
Parejo có tên trong đội hình U19 Tây Ban Nha tham dự Giải vô địch U19 châu Âu 2007. Trong giải đấu được tổ chức tại Áo, anh đã ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết với Hy Lạp (1–0).
Parejo được đôn lên đội U21 vào năm sau, xuất hiện trong một số trận đấu vòng loại Giải vô địch châu Âu 2009. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển quốc gia vào ngày 27 tháng 3 năm 2018, thay thế Thiago Alcântara vào cuối trận thua giao hữu 6–1 trước Argentina.
3. Thống kê sự nghiệp thi đấu
Mùa giải CLB Giải đấu 2025/2026 LaLiga
11 0 0 2 0 2024/2025 LaLiga
36 3 3 8 0 2023/2024 LaLiga
33 3 5 4 0 2022/2023 LaLiga
37 3 4 6 0 2021/2022 LaLiga
33 2 10 3 0 2020/2021 LaLiga
36 3 4 4 0 2019/2020 LaLiga
35 8 3 6 1 2018/2019 LaLiga
36 9 7 5 1 2017/2018 LaLiga
34 7 8 15 1 2016/2017 LaLiga
36 5 7 12 0 2015/2016 33 8 5 9 0 2014/2015 34 12 5 15 1 2013/2014 31 4 5 7 0 2012/2013 27 1 0 9 0 2011/2012 16 0 0 4 0 2010/2011 36 3 0 8 0 2009/2010 28 6 0 6 0 2008/2009 3 0 0 0 0 Tổng 535 77 66 123 4
4. Danh hiệu
Valencia
- Copa del Rey: 2018–19
Villarreal
- UEFA Europa League: 2020–21
U19 Tây Ban Nha
- Giải vô địch U19 châu Âu: 2007
U20 Tây Ban Nha
- Đại hội Thể thao Địa Trung Hải: 2009
U21 Tây Ban Nha
- Giải vô địch U21 châu Âu: 2011
Cá nhân
- Đội hình tiêu biểu La Liga của UEFA: 2017–18, 2018–19
- Đội hình tiêu biểu UEFA Europa League: 2020–21
Trên đường Pitch

