Đã 24 năm kể từ lần cuối cùng Argentina giành được một danh hiệu cao quý. Đó là một sự thật đáng buồn khi người ta không thấy được sự kế thừa giữa các thế hệ cầu thủ tài năng đi ra từ năm chức vô địch U20 World Cup từ năm 1995 đến 2007. |
Paulo Dybala: Sự vươn lên của viên đá quý |
Lionel Messi, Sergio Agüero và Gonzalo Higuaín tất cả đều sẽ trên 30 tuổi ở vòng chung kết World Cup sắp tới: khi họ ra đi, ai sẽ là người thay thế?
Câu trả lời có lẽ nằm ở Turin nơi có một chàng trai 23 tuổi đáng lẽ ra đã có thể thi đấu cho đội tuyển Ba Lan. Paulo Dybala đã có sáu trận đấu cho đội tuyển - lí do của con số này là vì những tên tuổi lớn trước mặt chứ không phải vấn đề khả năng - tuy nhiên ở thời điểm này, anh là ứng cử viên sáng giá nhất cho vị trí tâm điểm hàng công của Argentina tại World Cup Qatar 2022. Thậm chí có lẽ anh sẽ được nâng tầm lên từ chính World Cup tại Nga vào năm tới (nếu Argentina thi đấu thuyết phục ở những trận vòng loại cuối cùng)
Dybala đã ghi chín bàn và sáu đường kiến tạo cho Juventus ở Serie A mùa này sau khi đã từng ghi tới 19 pha lập công và chín đường kiến tạo trong năm trước. Hai bàn thắng vào lưới Barcelona ở tứ kết Champions League nâng tổng số pha lập công của anh lên con số bốn trong bảy lần đá chính. Trong một đội bóng với khả năng phòng thủ thượng thừa và chắc chắn, anh là một điểm sáng, một cầu thủ có khả năng định đoạt trận đấu. “Tôi gọi Dybala là ‘Vuông cộng R2’,” Paul Pogba, người cùng với Dybala tạo thành bộ đôi nhân tố chính cho scudetto mùa trước, chia sẻ. “Đó là tổ hợp khi bạn bấm trên PlayStation để ngoặt bóng và dứt điểm. Cậu ấy luôn ghi bàn như thế.”
Biệt danh của Dybla là la Joya (viên đá quý), nó được đặt bởi một nhà báo Argentina sau khi anh ghi bàn thắng thứ hai cho Instituto - một đội bóng của tỉnh Cordoba - khi mới chỉ 17 tuổi và thiết lập kỉ lục cầu thủ trẻ nhất ghi bàn cho câu lạc bộ kể từ thời của Mario Kempes. Nhưng thực tế giống như nhiều người Argentina khác, những gì về anh là câu chuyện của một người nhập cư và nó được bắt đầu từ rất lâu trước khi anh chào đời.
Ông nội của Dybala, Boleslaw, lớn lên và làm việc cho một linh mục ở Krasniow - ngôi làng ở phía nam Ba Lan và cách Krakow khoảng 40 dặm hướng đông bắc. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, ông được gửi tới làm việc ở Đức. Khi ông trở về nhà, ông thấy rằng mình không có công ăn việc làm ở đây nữa nên quyết định di cư đến Argentina. Ông không biết ai tại đó, không có liên hệ với bất cứ người nào và hai tuần đầu tiên ông dành cho việc ngủ ở một cánh đồng ngô trước khi đi tìm việc. Anh trai ông đến Canada và gửi cho ông một tấm thiệp kèm một hộp bánh để giữ liên lạc mỗi dịp Giáng sinh. Boleslaw đã quên tiếng Ba Lan và phải nhờ người khác dịch thư hộ.
Boleslaw qua đời khi Dybala bốn tuổi, thế nhưng những dấu ấn mà ông để lại ở người cháu của mình là rất đậm nét. Khi Dybala rời Instituto đến Palermo năm 2012 và cần một hộ chiếu châu Âu, ban đầu anh đã cố gắng để lấy quốc tịch Ba Lan. Mặc dù vậy thủ tục hành chính quá rườm rà và phức tạp, thay vào đó anh đã chuyển sang hộ chiếu Italia nhờ gốc gác gia đình bên mẹ có nguồn gốc gần Naples.
Ban đầu, Dybala là một enganche, cầu nối giữa hàng tiền vệ và tiền đạo nhưng những gì anh thể hiện ở vị trí này còn vượt xa ngoài mong đợi. Đối tác tấn công đầu tiên của anh ở đội trẻ Instituto, Gustavo Gotti, kể lại rằng luôn luôn có một sự trưởng thành và hiệu quả trong lối chơi của anh.
“Khi còn bé, người ta hay nói với bạn rằng một cầu thủ xuất sắc sẽ vượt qua được 10 người,” Gotti nói.
“Nhưng cậu ấy thì không như vậy. Cậu ấy loại bỏ một người và thực hiện đường chuyền chính xác cho bạn. Cậu ấy chuyền bóng nhanh, đơn giản và ra sự khác biệt với những cú dứt điểm ngoài vòng cấm. Một chút gì đó giống như những gì cậu ấy thể hiện bây giờ.” |
Paulo Dybala trong màu áo Palermo |
Năm 2011, bước đột phá đã đến. Đội trẻ Instituto đến thi đấu ở Torneo Esperanza Alba, một giải đấu được tổ chức bởi Colo Colo ở Santiago, Chile và huấn luyện viên của họ, Francisco Buteler, quyết định đẩy Dybala lên hàng tiền đạo cùng Gotti. Ban đầu anh gặp đôi chút khó khăn vì bản thân anh nhìn thấy mình ở vị trí số 10 giống như những cầu thủ Argentina vĩ đại trước đây đã từng. Thế nhưng cuối năm đó, anh đã được đôn lên thi đấu cùng đội một và trở thành la Joya như người ta hay nhắc đến bây giờ.
Sự nhận thức rõ ràng về cả hai vai trò là chìa khóa đối với Dybala, người có thể đá như một hộ công hoặc một tiền đạo. Anh là một cầu thủ rất hiện đại, một tiền đạo hoàn hảo, một chân rê rắt và chỉ rê rắt khi cần thiết. Cựu tiền đạo của Uruguay và Manchester United, Diego Forlán đã so sánh anh với Agüero, một phép so sánh có vẻ chính xác hơn phép so sánh Dybala như một “Messi mới”.
Nhưng nếu anh giống Agüero thì đó là Agüero khi còn thi đấu bên cạnh Forlán ở Atlético, thời điểm đó cầu thủ người Argentina có xu hướng lùi sâu hơn bây giờ. Dybala có lẽ không phải một cầu thủ có bản năng săn bàn như cầu thủ đồng hương của mình, tuy nhiên khả năng di chuyển và những thuộc tính của anh có vẻ tốt hơn. Trong trường hợp đó, anh có vẻ giống như một Aguero mà Pep Guardiola đang kì vọng, hơn là một Agüero “chính thống” (và hiệu quả cao) như bây giờ.
Đối đầu với Monaco ở trận bán kết lượt đi Champions League sắp tới, nhiều khả năng Dybala sẽ đá ngay phía sau Higuaín. Bộ đôi này cùng với Mario Mandzukic và Juan Cuadrado ở hai cánh đã chứng tỏ được sự hiệu quả của mình trong mùa giải năm nay. Chúng ta hãy trông đợi vào những màn tỏa sáng tiếp theo của Paulo Dybala!
Lược dịch từ bài viết Paulo Dybala: the rise and rise of Juventus’ attacking ‘jewel’ của tác giả Jonathan Wilson trên The Guardian.
CG (TTVN)