Josef Bican: Chân sút huyền thoại và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng

Tác giả CG - Thứ Sáu 05/02/2021 17:54(GMT+7)

Zalo

Josef Bican được cho đã bị Cristiano Ronaldo vượt qua về thành tích ghi bàn. Tuy nhiên bảng xếp hạng những chân sút ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại không đơn giản như bạn nhìn, những chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp Bican cũng vậy.

Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
 
Một bàn thắng là gì? Đây dường như là câu hỏi khá cơ bản. Nhưng khi những thành tích ghi bàn của Lionel Messi và Cristiano Ronaldo thách thức những kỷ lục vượt ngoài tầm với suốt một thời gian dài, hóa ra những cột mốc ấy chưa bao giờ được xác minh chắc chắn như chúng từng hiện diện.
 
Ngày nay, chúng ta có những ý niệm rõ ràng về những thứ cấu thành về một trận đấu chính thức và những bàn thắng được ghi trong trận đấu. Ví dụ, nếu bạn đang thi đấu cho Barcelona hay Real Madrid thì bàn thắng đó được tính ở LaLiga, Copa del Rey, Supercopa, Champions League, Europa League, UEFA Super Cup hay FIFA Club World Cup. Không có giải đấu nào khác ở cấp CLB được tính - các trận giao hữu hay International Champions Cup. Với đội tuyển quốc gia thì đó là World Cup, các giải vô địch châu lục (và vòng loại của chúng), Nation League và các trận giao hữu chính thức trước các đội tuyển khác.
 
Đến đây, một điều mâu thuẫn xuất hiện: Tại sao một trận giao hữu cho Bồ Đào Nha, ví dụ như vậy, lại được tính còn cho Juventus thì không? Thật dễ để chế giễu bảng thống kê “không chính thức” của Pele bao gồm hàng trăm bàn trong các trận giao hữu. Tuy nhiên trong số đó có những trận mang tính biểu diễn trước những đối thủ không đạt tiêu chuẩn và có những trận đấu trước những đối thủ có chất lượng rất cao, diễn ra cực kỳ nghiêm túc khi Santos du đấu tới châu Âu.
 
Điều khiến mọi người bàn luận chính là các nhà thống kê của Santos đột nhiên phát hiện ra hàng loạt bàn thắng mới của Pele ngay khi Messi vừa cân bằng thành tích với “Vua bóng đá” hay các sử gia của Slavia Prague cho biết Josef "Pepi" Bican thực sự còn một loạt bàn thắng trong các trận đấu chính thức khi Ronaldo được cho là vượt kỷ lục của huyền thoại này.
 
Nhưng sự thật là so sánh giữa các thời đại là gần như không thể, đặc biệt khi một cầu thủ trong so sánh ấy như Bican chơi cho tận 3 đội tuyển quốc gia.
 
Tháng 1 năm nay, Ronaldo đạt cột mốc 760 bàn thắng cho CLB và đội tuyển: 5 bàn cho Sporting CP, 118 bàn cho Manchester United, 450 bàn cho Real Madrid, 85 bàn cho Juventus và 102 bàn cho đội tuyển Bồ Đào Nha. Thành tích đó dường như giúp anh vượt qua thành tích 759 bàn thắng của Bican. Nhưng những người khác, nơi khác bao gồm FIFA cho biết Bican đã ghi 805 bàn thắng. Và nhiều nơi khác cũng có những con số thống kê của riêng mình.
 
Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
 
Thực tế vấn đề là mỗi nơi có thể đưa ra một nhận định, con số theo tiêu chuẩn của mình. Và điều đó đặc biệt đúng với một người đã chơi bóng trong giai đoạn đầy biến động như Bican. Theo một góc nhìn nào đó, việc chúng ta phân định chính xác tổng số bàn thắng chủ yếu là vì lợi ích mang tính học thuật hơn là vì ông là một cầu thủ vĩ đại, một tiền đạo xuất sắc và một người đã sống cuộc đời đáng chú ý.
 
Gia đình Bican ban đầu đến từ Sedlitz, gần Prague. Khi ông Frantisek (cha của Josef Bincan), còn rất bé, cha mẹ ông (tức ông nội Josef Bican) đã đưa gia đình tới Vienna và sống ở ngoại ô Favoriten. Đó là khu vực nổi tiếng với các nhà máy gạch và thu hút rất nhiều người nhập cư. Nơi đây dần trở nên nổi tiếng với cái tên mang tính miệt thị: Ziedelböhm (gạch từ Bohemia). Ước tính có khoảng 300.000 người đã rời Bohemia, Moravia và Hungary tới Vienna vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

Franitsek kết hôn với Ludmilla, người sinh ra trong gia đình Bohemia ở Vienna. Franitsek là công nhân trong khi Ludmilla nuôi dạy 3 đứa con trai và làm nội trợ. Frantisek cũng là một cầu thủ bóng đá rất giỏi, một tiền đạo cừ khôi của Hertha Wien trước Chiến tranh Thế giới thứ 1. Trong một trận đấu diễn ra vào năm 1910, đầu gối của đối phương đã thúc vào thận của ông dẫn đến chấn thương.
 
Franitsek được khuyên hãy phẫu thuật nhưng ông từ chối, không rõ vì chi phí cao hay sợ hãi. Khi chiến tranh nổ ra, ông bị điều vào quân đội Áo-Hung. Ông qua đời vào năm 1922 khi mới 30 tuổi mà nguyên nhân dường như là do bị bệnh xuất phát từ quả thận bị hỏng.
 
Lúc này Favoriten nhanh chóng trở thành ngôi nhà bóng đá ở Vienna. Bóng đá là lối thoát cho nghèo đói - theo nghĩa bóng và với một số người may mắn thì là cả nghĩa đen. Nhà Bican sống ở đường Quellenstrasse, cách nhà của huyền thoại Matthias Sindelar vĩ đại - người được xem là cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử bóng đá Áo - vài ngôi nhà. Sindelar hơn Josef “Pepi” Bican 10 tuổi và từ đầu thập niên 30 ông trở thành trái tim của đội hình tuyển Áo huyền thoại có biệt danh "Wunderteam" (Đội bóng kỳ diệu).
 
Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
Josef Bican (phải)

Sindelar, cầu thủ có biệt danh “Papierene” (Người giấy) vì vóc dáng mỏng cơm của mình, đã tạo ra cuộc cách mạng cho vị trí tiền đạo cắm. Trước đó, các tiền đạo thường to lớn và mạnh mẽ, nhiệm vụ của họ là tranh chấp với trung vệ đối phương và dứt điểm bóng từ các quả tạt. Tuy nhiên, Sindelar lại hay lùi sâu xuống. Lối chơi của ông là tìm kiếm, tạo ra không gian và tung những đường chuyền chính xác. Bican gần như không thể khác.
 
Ông rất cao và nhanh nhẹn đến nỗi người ta nói ông có thể chạy 100m trong vòng 10,6 giây. Kỷ lục thế giới chạy cự ly 100m ở thời điểm đó là 10,3 giây. Chi tiết chính xác có thể còn nhiều tranh cãi, nhưng điểm mấu chốt ở đây là ông rất nhanh. Ở tuổi thiếu niên, Bican đi theo con đường của cha và gia nhập Hertha Wien, nơi Sindelar đã bắt đầu sự nghiệp. Mẹ ông là một cổ động viên cuồng nhiệt, đôi khi là hơn cả cuồng nhiệt. Có lần bà chạy hẳn vào sân và tấn công cầu thủ hung hãn của đối phương bằng một chiếc ô.
 
Tài năng của Bican quá rõ ràng và danh tiếng của ông nhanh chóng vang xa. Rapid Wien, một trong những ông lớn của bóng đá Áo, đã đề nghị ông gia nhập đội trẻ của họ. Trong trận đấu đầu tiên cho CLB, ông ghi 7 bàn và được đôn lên đội nghiệp dư, đội thường dành cho lứa tuổi 18 và 19. Trong trận đấu đầu tiên ở đây, ông ghi 5 bàn thắng và sau 3 tháng được đôn lên đội dự bị.
 
3 tháng sau đó, vào tháng 9 năm 1931, Bican - lúc này vẫn chỉ mới 17 tuổi - đá trận đầu tiên cho đội trong cuộc chạm trán Austria Wien được lĩnh xướng bởi Sindelar. Sau hiệp 1, Bican đã lập hattrick và ghi thêm bàn thứ 4 trong hiệp 2 để giúp đội giành chiến thắng 5-3. Trận đấu đầu tiên của ông cho đội tuyển quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1933, và khi World Cup sẽ diễn ra vào năm sau, ông đã là một thành viên có vị trí vững chắc trong đội, hoạt động ở vị trí inside-right (tiền đạo phải). 
 
Bican hình thành sự ăn ý với Sindelar - người hay lùi xuống từ vị trí tiền đạo cắm để tạo không gian cho Bican tăng tốc vào. Tuy nhiên vào thời điểm World Cup 1934 diễn ra tại Italy, có cảm giác “Wunderteam” đã qua thời đỉnh cao. Bican ghi bàn mang về chiến thắng trước Pháp ở vòng 1 nhưng Áo không bao giờ tìm lại được nhịp điệu của mình và sau đó bị Italy loại ở bán kết.
 
Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
 
Bican giành chức vô địch quốc gia Áo với Rapid vào mùa giải 1934/1935 nhưng cuối mùa, ông bị treo giò sau khi từ chối gia hạn hợp đồng và khăng khăng muốn chuyển tới Slavia Prague. Ông khẳng định rằng chưa bao giờ hoàn toàn cảm thấy Rapid như là nhà và tư tưởng độc lập, cứng đầu của ông bắt đầu bộc lộ. Bican khẳng định lối chơi ở cả Rapid lẫn Hertha quá thiên về sức mạnh, chủ yếu dựa vào tốc độ và thể lực. Sau khi sát cánh cùng Sindelar ở đội tuyển, ông cũng muốn chơi thứ bóng đá tương tự ở cấp CLB.
 
Nhưng việc gia nhập Austria Wien có Sindelar ở đó là không thể về mặt tài chính. Slavia - đội bóng có lối chơi kỹ thuật tương tự - cũng bày tỏ sự quan tâm nhưng Rapid không muốn bán mà buộc ngôi sao của mình phải từ bỏ. Sau đó, thông qua người chú của Josef Bican, một thỏa thuận với Admira Wien được thông qua, thời điểm đó là đội bóng thành công nhất lịch sử Áo. Tuy nhiên Rapid vẫn từ chối để ông đi và Bican trải qua 9 tháng không thi đấu.
 
Khi cuối cùng cũng được phép ra đi, Bican giành chức vô địch quốc gia trong cả 2 mùa giải với Admira. Dù vậy trái tim ông vẫn hướng về Prague. Nhưng Bican luôn giữ tinh thần lạc quan một phần nhờ vào khiếu hài hước và những trò đùa của mình. Trò đùa quái nhất của ông là gọi 2 chiếc taxi, gửi mũ và áo khoác trong chiếc thứ nhất rồi ngồi vào chiếc thứ hai để những người ở điểm đến nghĩ ông đã bốc hơi.
 
Cuối cùng vào tháng 4 năm 1937, ông gia nhập Slavia dù những tranh cãi trong hợp đồng khiến ông không thể đá cho CLB cho tới tận tháng 8. Trận đấu đầu tiên của ông là thất bại 0-1 đầy bất ngờ trước SK Kladno, nhưng sau đó ông đã ghi 4 bàn vào lưới đội bóng có biệt danh Bohemians ở cúp quốc gia và ghi thêm 4 bàn nữa trong trận đầu tiên của ông trên sân nhà trước SK Nachod. Sau khi hoàn tất các thủ tục nhập tịch, Bican được gọi lên đội tuyển quốc gia Tiệp Khắc dù lúc này là quá muộn để ông có thể tham dự World Cup 1938.
 
Bican là vua phá lưới trong mùa giải đầu tiên nhưng Slavia chỉ kết thúc ở vị trí á quân. Vào tháng 3 năm 1939, Đức xâm lược Tiệp Khắc. Từ đó, ở phía tây, Xứ bảo hộ Bohemia và Moravia được thành lập, ông Emil Hacha được giữ lại làm tổng thống nhưng thực tế nơi này do Reichsprotektor - đại diện cá nhân của Adolf Hitler - điều hành. Ở phía đông, Cộng hòa Slovak được thành lập và là nhà nước phụ thuộc Đức trong khi phần phía nam do Hungary chiếm giữ.
 
Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
 
Bóng đá bị chia rẽ theo những con đường tương tự. Các đội Slovak thành lập giải vô địch riêng còn các CLB Bohemia và Moravian cũng mang những kết quả của họ từ giải vô địch Tiệp Khắc sang Cesko-moravska liga. Trong khi đó, các CLB có sắc tộc Đức thi đấu ở giải vô địch Đức - như họ đã từng làm trước khi Đức gia nhập FIFA năm 1904.
 
Slavia kém Sparta 1 điểm nhưng Bican một lần nữa trở thành vua phá lưới. Và đây là lúc câu hỏi điều gì cấu thành bàn thắng “chính thức” trở nên phức tạp. Ví dụ ở Anh các giải đấu diễn ra thời chiến không bao giờ được tính vào các thống kê chính thức; ở Xứ bảo hộ Bohemia và Moravia thì có. Nỗi ám ảnh của Đức Quốc Xã về “tính thuần khiết” của nỗ lực trong thể thao và niềm tin mang tính bài Do Thái rằng việc coi thể thao là một nghề nghiệp là sự băng hoại của người Do Thái với giá trị thực của thể thao khiến giải đấu trở lại thành nghiệp dư.
 
Kết quả là Bican sau đó làm việc trong bộ phận thư tín của công ty luyện kim và khai thác mỏ. Ông làm việc 5 ngày mỗi tuần và được thưởng một căng hộ sang trọng có sàn gỗ mun thuộc sở hữu của công ty.
 
Giải đấu của Xứ bảo hộ tiếp tục diễn ra nhưng các tiêu chuẩn đã giảm xuống đáng kể. Các cầu thủ không chỉ tập luyện ít đi mà các nguồn lực ngày càng trở nên hạn chế, nhiều cầu thủ bị gọi vào quân ngũ, bị thương và qua đời. Việc ghi bàn gấp đôi đối thủ không phải là hiếm. Có tận 4 lần Bican ghi 7 bàn trong 1 trận. 100 bàn thắng đầu tiên của ông cho Slavia đến sau 33 tháng, 100 bàn tiếp theo đến sao 30 tháng.
 
Mùa giải 1940/1941, ông ghi 38 bàn thắng trong 22 trận. Dù những điều này đặt ra những câu hỏi về tiêu chuẩn của giải đấu nhưng cũng hãy nhớ rằng không ai ghi nhiều bàn thắng như thế ở thời điểm đó. Ông là vua phá lưới trong 5 mùa giải của Cesko-moravska liga và 4 lần giành chức vô địch.

Nhưng điều ấy không khiến ông nổi tiếng. Thân phận một người Bohemia sinh ra ở Áo khiến ông rơi vào tình thế khó xử. Ông luôn sống trong cả hai thế giới. Ông đi học ở trường Czech, nói tiếng Czech với các anh em và tiếng Đức với mẹ dù ông luôn khẳng định mình “100% Czech”. Năm 1939, Bican được gọi lên đội tuyển Xứ bảo hộ để tham dự một loạt trận đấu quốc tế, đỉnh điểm là trận đấu với Đức Quốc Xã, trận đấu khép lại với tỷ số 4-4 và Bican lập hattrick.
 
Bican được mời tới thi đấu cho Đức Quốc Xã với đãi ngộ là mức lương cao và nhiều phiếu ăn hơn, nhưng ông từ chối dù rất sợ bị trả thù. Tuy vậy, một vài đồng đội Czech coi ông như một kẻ ngoại lai, một kẻ đại diện cho thế lực đang chiếm đóng.
 
Josef Bican và sự phức tạp của những thống kê bàn thắng hình ảnh
 
Bican dường như luôn là một người cô độc và khá bất ngờ khi ông kết hôn với cô gái 18 tuổi có tên Kvetoslava Trlova vào năm 1939. Bà sống thận trọng và kín tiếng dù trước một trận derby vào năm 1940, bà tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn rằng bí quyết thành công của chồng là “món thịt viên đặc biệt”. Nhưng 1 năm sau, bà qua đời vì bệnh lao trước sinh nhật tuổi 20 chỉ vài tuần.
 
Bican tái hôn vào năm 1943. Vợ hai của ông - bà sống cùng Bican cho đến khi ông qua đời năm 2001 - có tên Jarmila Lokajova, là vận động viên quần vợt, trượt băng và vũ công khá cừ. Bà là một cổ động viên Slavia và họ gặp nhau trong một nhà hàng sau một trận đấu.
 
Khi Thế chiến Thứ 2 kết thúc, Tiếp Khắc được tái thành lập và giải vô địch bóng đá cũng vậy. Sparta và Slavia thay nhau giành chức vô địch trong 4 năm, Bican vẫn là vua phá lưới suốt thời gian đó. Tuy nhiên, vào mùa thu 1948 - tức mùa giải thứ 4 trong số đó - chỉ kéo dài một nửa so với thường lệ vì chính quyền quốc hữu hóa các CLB bóng đá, thời gian giải diễn ra từ mùa xuân đến mùa thu để phù hợp với lịch Liên Xô từ 1949. Các trận đấu diễn ra chỉ trong nửa mùa giải có phải chính thức hay không? Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào người mà bạn hỏi.
 
Lúc đó Bican 35 tuổi và tuổi tác bắt đầu ảnh hưởng lên màn trình diễn. Nhưng vấn đề lớn hơn là tư tưởng độc lập của ông. Bican từ chối gia nhập Đảng Cộng sản ngay cả khi Slavia đã xin ông. Kết quả là ông bị tịch thu tài sản và rời Slavia, chuyển đến Ostrava và gia nhập đội hạng hai Sokol Vitkovice Zelezarny. Trong mùa giải đầu tiên ở đó, ông ghi 22 bàn và giúp CLB thăng hạng.
 
Sau đó ông gia nhập Spartak Hradec Kralove trước khi được cho phép trở lại Slavia, lúc này có tên Dynamo Prague, vào năm 1952. 1 năm sau, ông trở thành HLV kiêm cầu thủ và thi đấu ít hơn. Trận đấu cuối cùng của ông ở giải VĐQG là trước Liberec. Khi ấy ông đã 43 tuổi nhưng vẫn ghi 4 bàn. Cuộc sống vẫn không hề dễ dàng với Bican, ông buộc phải làm các công việc khác để kiếm sống như xếp hàng lên các toa tàu và suốt một thời gian là cho động vật ăn ở sở thú Prague.
 
Suốt 28 năm, Bican đã ghi rất nhiều bàn thắng. Trong 11 năm liên tục, ông là vua phá lưới ở mọi giải vô địch ông tham gia. Về số lượng bàn thắng ông đã ghi thì chúng phụ thuộc vào những gì bạn tính. The Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation (RSSSF) ghi nhận ông ghi 542 bàn thắng ở giải vô địch quốc gia, 134 bàn ở các cúp quốc gia, 15 bàn ở Mitropa Cup (một giải cúp châu Âu trước đây) và 46 bàn với các đội tuyển quốc gia.
 
Tuy nhiên cũng có các giải mùa đông, các giải thành phố và khu vực. Tổng cộng, họ thống kê ông ghi 948 bàn thắng trong 621 trận đấu chính thức nhưng có hơn hơn 864 bàn trong các trận giao hữu. Nhưng dù sao đi nữa, RSSSF thống kê Ronaldo ghi tổng cộng 778 bàn trong các trận chính thức - xếp trên Pele (775) nhưng đứng sau Romario (780) và Ferenc Puskas (808).
 
Tin xấu với Ronaldo là còn một đỉnh cao nữa cao hơn cả Bican: Erwin Helmchen - tiền đạo người Đức sinh năm 1907 - ghi 981 bàn trong các trận đấu chính thức chủ yếu cho Brandenburg Cottbus và SV Chemnitz, theo RSSSF.
 
Nhưng đó là câu chuyện khác.
 
Dịch từ bài viết “Filling in the Blanks on (Possibly) the Greatest Goalscorer Ever and the Murkiness of His Total” của tác giả Jonathan Wilson trên Sports Illustrated.
Khám phá thêm nội dung hấp dẫn trong các chủ đề liên quan:

Cùng tác giả

Cùng chuyên mục

X
top-arrow