Đối với nhiều người, cái tên Giovane Élber sẽ không lập tức nảy ra trong đầu khi họ nói về những tiền đạo xuất sắc nhất của đội bóng xứ Bavaria. Nhưng thực tế là rất ít người có thể sánh với những gì ông từng làm được.
Trong nhiều năm, Bayern Munich luôn tự hào khi sở hữu những tiền đạo đẳng cấp. Gerd Müller ghi 508 bàn cho “Hùm xám” ở thập niên 70. Trong khi đó, Karl-Heinz Rummennigge, đối tác ăn ý của “Vua dội bom” trong vòng 5 năm, luôn được xem là một trong những tài năng xuất chúng nhất lịch sử bóng đá Đức. Đến các thế hệ về sau thì có những cái tên quen thuộc như Robert Lewandowski, Luca Toni và Mario Gómez, tất cả đều ghi rất nhiều bàn thắng cho Die Roten.
|
Giovane Élber: Người Brazil vĩ đại của xứ Bavaria |
Tuy nhiên đối với nhiều người, cái tên Giovane Élber sẽ không lập tức nảy ra trong đầu khi họ nói về những tiền đạo xuất sắc nhất của đội bóng xứ Bavaria. Nhưng thực tế là rất ít người có thể sánh với những gì ông từng làm được. Gần 150 bàn thắng sau 266 lần ra sân, 4 danh hiệu Bundesliga và 1 chiếc cúp Champions League thực sự giúp ông sánh ngang hàng với những huyền thoại vĩ đại của câu lạc bộ.
Không giống như hầu hết các cầu thủ Brazil khác, Élber không bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp ở Brazil mà thay vào đó lựa chọn đi ra nước ngoài để tìm kiếm cơ hội đầu tiên. Sau khi ấn tượng với tài năng của Élber, AC Milan đã đưa ông về vào năm 1990 từ Londrina. Năm ấy, Élber 18 tuổi và vụ chuyển nhượng thể hiện một bước nhảy vọt của chàng tiền đạo khi đó.
Ông ở Milan trong 1 năm và không gây được quá nhiều chú ý khi bên cạnh là rất nhiều huyền thoại. Cạnh tranh cùng với chủ nhân của 2 Quả bóng vàng Marco van Basten đã là quá khó rồi nhưng trước mặt Élber còn là Ruud Gullit, Daniele Massaro và Marco Simone. Cộng thêm những hạn chế với cầu thủ ngoài EU trong đội một khiến Élber đứng trước khả năng phải xuống đội trẻ thi đấu.
Mùa giải sau, đội bóng Thụy Sĩ có tên Grasshoppers đã đưa ra lời đề nghị với Élber, mở ra cơ hội đầu tiên để ông thi đấu chuyên nghiệp. Và ông đã không từ chối nó. Trong vòng 3 năm, ông ra sân 73 trận cho đội bóng xứ sở đồng hồ, ghi 43 bàn thắng và giành 1 Cúp Quốc gia Thụy Sĩ. Phong độ xuất sắc trong màu áo Grasshoppers cùng màn trình diễn ấn tượng tại giải U20 World Cup 1991, giải đấu mà ông ghi 4 bàn trong hành trình đưa Brazil tới trận chung kết, là đủ để VfB Stuttgart chi ra 1,6 triệu euro để đưa ông về.
Và phong độ cao tiếp tục được Élber duy trì. Từ năm 1994 đến 1997, ông có 44 pha lập công: 8 trong số đó ở mùa giải 1994/1995, 16 bàn trong mùa 1995/1996 và 20 lần làm rung lưới đối thủ ở mùa giải 1996/1997. Đó là những con số ấn tượng đủ để chứng minh Élber chính là một trong những tiền đạo bị đánh giá chưa đúng khả năng nhất lịch sử bóng đá. Những bàn thắng của chân sút người Brazil chính là tiền đề góp phần giúp ông giành danh hiệu thứ hai trong sự nghiệp, DFB-Pokal (Cúp Quốc gia Đức). Ông lập cú đúp trong chiến thắng 2-0 trước Energie Cottbus ở trận chung kết.
Tại Stuttgart, ông hợp với Krasimir Balakov và Fredi Bobic thành bộ ba ăn ý tới đáng nể, làm mê hoặc các cầu trường nước Đức. Họ thậm chí còn được đặt biệt danh là “Magisches Dreieck” (Tam giác ma thuật) và cho tới nay vẫn là một trong những bộ ba tiền đạo xuất sắc nhất nhưng ít được nhắc tới trong lịch sử Bundesliga hiện đại.
Tuy nhiên không lâu sau đó, bộ ba ấy cũng phải chia tay mà người xen vào không ai khác chính là Bayern Munich. Trong hành trình tìm kiếm một chân sút ghi bàn ổn định, “Hùm xám” đã lựa chọn Élber và không ngần ngại chi ra 6,5 triệu euro để đưa cầu thủ người Brazil về xứ Bavaria.
Mùa giải đầu tiên trong màu áo Bayern Munich, Élber ghi 21 bàn thắng và giúp “Hùm xám” giành DFB-Pokal, danh hiệu thứ ba trong sự nghiệp của tiền đạo Brazil. Cũng từ đây, sự nghiệp của ông ngày càng thăng tiến mạnh mẽ. Phong độ ghi bàn xuất sắc đó được duy trì trong mùa giải tiếp theo (1998/1999) và đã đưa chiếc đĩa bạc Bundesliga trở lại Munich. Thế nhưng, mùa giải đó với ông và câu lạc bộ lại kết thúc trong đớn đau khi họ để thua Manchester United trong trận chung kết Champions League không thể nào quên, một cuộc thư hùng mà “Hùm xám” đã dẫn trước 1 bàn đến khi trận đấu chuẩn bị khép lại. Còn Élber thì phải ngồi ngoài vì chấn thương đầu gối.
Mùa giải 1999/2000 chứng kiến Élber đạt tỷ lệ ghi bàn/trận kém nhất kể từ khi gia nhập Bayern Munich. Điều đáng chú ý là năm đó ông vẫn về nhì trong cuộc đua vua phá lưới và có 14 pha lập công tại Bundesliga (nhiều hơn 1 bàn so với người đồng đội Paulo Sérgio) để giúp “Die Roten” vô địch Bundesliga khi hơn Bayer Leverkusen về hiệu số bàn thắng bại.
Với một câu lạc bộ như Bayern, thành công tại Bundesliga chỉ là mục tiêu tối thiểu vào đầu mỗi mùa giải. Champions League mới thực sự là thước đo đánh giá thành công của đội bóng ấy, một danh hiệu mà họ luôn khao khát để thực sự được nhớ tới. Trận chung kết năm 1999 quả thực là “tấn bi kịch”, khi đó, lần gần nhất họ vô địch C1/Champions League là năm 1976.
Tuy nhiên số phận không bắt họ phải chờ lâu hơn nữa. Mùa giải 2000/2001, Élber cùng các đồng đội gạt cơn ác mộng tại Barcelona 3 năm trước sang một bên để đánh bại Valencia trong trận chung kết tại Milan. Sau khoảng thời gian thi đấu chính thức và 2 hiệp phụ, tỷ số là 1-1. Tiền đạo người Brazil góp mặt trên sân trong 100 phút. Bayern giành thắng lợi 5-4 trong loạt luân lưu để trở thành nhà vua của châu Âu.
Trận chung kết tại Milan có thể không phải trận đấu hay nhất của Élber nhưng đóng góp của ông thì chẳng thể đong đếm trong hành trình giúp Bayern Munich lên ngôi tại châu lục. Tiền đạo sinh năm 1972 ghi 6 bàn suốt cả giải đấu trong đó có 2 pha lập công vào lưới Real Madrid ở vòng bán kết. Và khi Bayern Munich có thêm một chiếc đĩa bạc Bundesliga nữa, giành được theo cách vô cùng kịch tính sau bàn gỡ hòa ở phút cuối cùng trên sân Hamburg trong vòng đấu cuối cùng của mùa giải, đó cũng là mùa giải thành công nhất của ông.
Trên phương diện cá nhân, Élber tiếp tục thi đấu ổn định. Hai mùa giải tiếp theo đó cũng là khoảng thời gian thi đấu sung sức nhất trong màu áo đỏ đội bóng vùng Bavaria. Mùa giải 2001/2002, anh ghi 24 bàn sau 47 lần ra sân trên mọi đấu trường. Tuy nhiên, mùa đó cũng là mùa bóng thất vọng của Bayern Munich khi họ chỉ giành được một Intercontinental Cup (Cúp liên lục địa).
Mùa giải trọn vẹn cuối cùng của Élber tại Bayern có thể coi là viên mãn. Tiền đạo Brazil ghi 21 bàn sau 33 lần ra sân tại Bundesliga và giúp “Hùm xám” giành đĩa bạc. Lần đầu tiên sau những năm tháng thi đấu tại Đức, ông kết thúc mùa giải Bundesliga với danh hiệu vua phá lưới (cùng Thomas Christiansen của Bochum). Trên mọi đấu trường, ôgn ghi 31 bàn sau 48 trận. “Thật tuyệt vời khi giờ đây tôi đã làm được điều đó sau 1 thập niên thi đấu tại Bundesliga. Cú đúp danh hiệu vua phá lưới và Cầu thủ xuất sắc nhất mùa do người hâm mộ bình chọn – điều đó thật tuyệt vời và khiến tôi vô cùng tự hào,” Élber nói.
Thế nhưng trong khúc quanh số phận, đó cũng lại là hào quang cuối cùng trong sự nghiệp của ông ở Bayern nói riêng và nước Đức nói chung (khoảng thời gian khoác áo Borussia Mönchengladbach từ 2004 tới 2006 thực sự là cơn ác mộng khi ông chỉ được ra sân 4 lần). Sau khi ghi 2 bàn trong 5 trận cho Bayern ở mùa giải 2003/2004, Élber chuyển tới Lyon với nhiệm vụ thay thế người đồng hương Sonny Anderson vừa chuyển sang khoác áo Barcelona. Dù tại nước Pháp, tiền đạo sinh năm 1972 không còn giữ phong độ như trước kia nữa nhưng ông vẫn có cho mình 2 chức vô địch Ligue 1, ghi 17 bàn trong 43 lần ra sân.
Tuy nhiên trong quãng thời gian chơi bóng ở xứ sở hình lục lăng, cái duyên đã đưa Élber gặp lại cố nhân. Trước đây, khi còn khoác áo Bayern, ống cùng các đồng đội đã có dịp chạm trán Lyon ở bảng C Champions League 2000/2001. Khi đó, Bayern Munich đánh bại Lyon 1-0 trên sân Olympiastadion (sân nhà cũ của “Hùm xám”) và thua 0-3 ở lượt về trên sân Gerland. Đến tháng 11/2003, khi Lyon hành quân tới Munich, chính Élber là người ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 cho đội khách. Dù là người gieo sầu cho đội bóng cũ nhưng Élber vẫn được những cổ động viên xứ Bavaria chào đón nồng nhiệt. Với cầu thủ, đó là minh chứng lớn nhất cho khả năng và hình ảnh của họ.
Sau 16 năm bôn ba, năm 2006 Élber quay về Brazil. Ông thi đấu chưa đầy một năm cho Cruzeiro trước khi tuyên bố giải nghệ vì sự qua đời của người cha, cái kết đầy bất ngờ với một sự nghiệp lẫy lừng. Nhìn lại quãng thời gian tung hoành sân cỏ của Élber, các con số thống kê cho thấy khả năng săn bàn đáng sợ của ông. Tuy nhiên, tiền đạo người Brazil không chỉ biết ghi bàn. Dù hầu hết thời gian thi đấu chuyên nghiệp của ông tại nước ngoài nhưng phong cách chơi bóng vẫn thể hiện rõ chất Brazil: tinh tế, đầy đam mê và kỹ thuật.
Tuy nhiên, Giovane Élber lại không có duyên với màu áo đội tuyển Quốc gia. Ông chỉ có 15 lần khoác áo Seleção và ghi 7 bàn thắng. Điều đó là không đủ để giúp anh có một vị trí thường xuyên trên tuyển và lần cuối cùng ông ra sân cho Brazil là vào năm 2001. Câu chuyện của Élber cũng khá giống Márcio Amoroso, một tiền đạo tài năng khác của Brazil, vì họ đều phải nhường chỗ cho những tài năng xuất chúng khác mà đất nước sản sinh ra như Ronaldo, Rivaldo và Ronaldinho.
Sau khi giải nghệ tại Cruzeiro, Élber vẫn ở lại Brazil cùng gia đình. Là một người có thể nói tiếng Đức trôi trảy, thỉnh thoảng ông xuất hiện trên truyền hình và đưa ra phân tích về những sự kiện bóng đá quốc tế ở cả Đức và Brazil. Tháng 1/2017, ông trở thành đại sứ của Bayern Munich và do đó không ngạc nhiên khi ông thường được hỏi ý kiến mỗi khi ai đó cần những tiếng nói liên quan tới câu lạc bộ.
Trong khoảng thời gian rảnh rỗi, ông còn làm thêm công việc chăn nuôi gia súc. Có lẽ điều này là minh chứng rõ ràng nhất cho việc ông thích sống một cuộc sống thoải mái, không bị những ánh mắt người khác soi xét. Ở Bayern, nhiều cựu cầu thủ rất thích lên tiếng bày tỏ quan điểm. Còn với riêng Giovane Élber, ông để những di sản của mình cất lời thay thế.
Lược dịch từ bài viết “Remembering Giovane Élber, Bayern Munich’s rampant Brazilian legend” của tác giả Jon Radcliffe trên These Football Times
CG (TTVN)