Rõ ràng Brendan Rodgers đã phát triển nên một đội bóng Leicester City chơi thông minh, có thể thích nghi với các chiến thuật mà vẫn duy trì hiệu quả trước đối thủ. Dù có kiểm soát bóng hay không, Leicester đều có những chiến lược để thay đổi nhanh chóng và khai thác những điểm yếu của đối phương ở cánh, từ lùi sâu cho đến pressing tầm cao.
Leicester City đã không ngừng tiến bộ kể từ khi Brendan Rodgers nắm quyền vào tháng 2 năm 2019. Từ việc giành vị trí trong top 6 ở mùa giải trọn vẹn đầu tiên chiến lược gia Bắc Ireland dẫn dắt, mùa giải 2020/2021 này Leicester đang cạnh tranh ở nhóm đầu bảng xếp hạng. Sự tiến bộ của “Bầy cáo” là điều rõ ràng. Dù Rodgers khẳng định rằng Leicester không phải ứng viên cạnh tranh ngôi vô địch, song những màn trình diễn của họ ở mùa giải này cho thấy điều khác. Ít nhất, sẽ vô cùng bất ngờ nếu Leicester không thể nằm trong top 4 sau khi mùa bóng năm nay kết thúc.
Phần lớn thành công của Leicester nằm ở năng lực chiến thuật của Rodgers và các cộng sự, trong đó là những cách tiếp cận về chiến thuật rất thông minh cộng thêm vận dụng hệ thống một cách khéo léo tùy thuộc vào từng đối thủ. Bài viết này sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện về cách Leicester vận hành lối chơi cũng như sự thích ứng với từng đối thủ.
TRIỂN KHAI TỪ SÂN NHÀ
Leicester mùa này thường thi đấu với hệ thống 4-2-3-1 trung tâm, Rodgers thường áp dụng sơ đồ này khi toàn bộ các cầu thủ sung sức. Có lẽ đó là lý do cho những màn trình diễn ổn định của họ thời gian gần đây. Bài viết sẽ tập trung vào cấu trúc này đồng thời nhìn vào những thích ứng chiến thuật với hệ thống này dựa trên những cấu trúc khác nhau của đối thủ, qua đó tối đa hóa hiệu quả màn trình diễn của Leicester.
Trong quá trình triển khai từ thủ môn Kasper Schmeichel ở những quả phát bóng và đảm bảo kiểm soát bóng, sơ đồ Leicester sử dụng phổ biến nhất là 4-2-3-1 với 2 tiền vệ trụ, bộ ba tấn công ở hàng tiền vệ dâng cao để ép hàng thủ đối phương, qua đó giúp cặp hậu vệ biên Timothy Castagne/James Justin thoát khỏi những tình huống gây áp lực của đối thủ. Điều này có thể được miêu tả trong minh họa thứ nhất ở dưới đây, Leicester đối phó quá áp lực mà Manchester United tạo ra (triển khai ở sơ đồ 4-3-1-2, dù thi đấu 4-2-3-1 lúc kiểm soát bóng).
Schmeichel chuyền cho Jonny Evans; Evans và Wesley Fofana đều đang đứng ở những vị trí có không gian hẹp để nhận bóng trong vòng cấm (nếu giả định đó là đường chuyền chéo trong vòng 5m50 và 16m50). Trong khi đó, bộ đôi tiền vệ trung tâm Wilfred Ndidi và Youri Tielemans đứng ở vị trí khá sâu, cách vòng cấm địa 9m để thu hút áp lực và sự chú ý của các tiền vệ trung tâm bên phía Man United.
Kết quả là điều này giúp Castagne/Justin thoát khỏi sự chú ý ở cánh, Ndidi/Tielemans có cơ hội để đột phá ở trung lộ nếu hộ nhận bóng. Trong khi đó nó cũng tạo ra khoảng trống ban đầu cho một đường chuyền vào cánh để phá vỡ lớp pressing. Hơn nữa, vị trí lùi sâu của Tielemans/Ndidi trong vai trò cặp đôi số 6 tạo ra một tam giác với trung vệ và hậu vệ cánh ở hướng của họ, qua đó cho phép họ phối hợp nhanh và có các lựa chọn khả dĩ để phối hợp.
Nếu trung vệ kiểm soát bóng và chịu áp lực, Tielemans/Ndidi có lựa chọn để lùi xuống và đập nhả đồng thời có thể tìm không gian để nhận bóng mà không chịu sự kèm cặp. Điều này cũng tạo ra một kịch bản để thi đấu gần khu vực góc và giúp hậu vệ biên phá vỡ lớp pressing. Nếu 2 tiền vệ cánh của Man United trong hàng tiền vệ 3 người quyết định đẩy ra cánh trong tình huống dưới đây, nó sẽ không chỉ là tình huống 2 vs 1 (nếu không muốn nói là 3 vs 1 khi có thêm Maddison) chống lại McTominay nếu Ndidi/Tielemans vượt qua Fernandes. Ngoài ra, khoảng cách hàng ngang tuyệt vời giữa các cầu thủ giúp Ndidi/Tielemans phá vỡ hàng tuyến để nhận đường chuyền và chuyền bóng trực tiếp cho Maddison/Vardy, qua đó hạn chế các phương án của Man United trong tình huống này.
Vị trí khá cao của Harvey Barnes/Marc Albrighton cũng ảnh hưởng đến khả năng Man United bao quát Castagne/Justin. Barnes và Albrighton chọn vị trí cao và gần biên nhất có thể để “khóa” không cho cặp hậu vệ biên Man United dâng cao, trong khi Jamie Vardy giữ sự chú ý của các trung vệ Man United.
Nếu Luke Shaw/Victor Lindelof chọn vị trí cao hơn, ví dụ như giữa cặp hậu vệ biên và tiền vệ biên Leicester, có thể sẽ tạo ra tình huống 2 vs 3 ở hàng thủ - điều mà “Quỷ đỏ” muốn tránh. Trong khi đó cũng cần xem xét rằng vị trí xuất phát khá thấp của Castagne/Justin cũng triệt tiêu khả năng Shaw/Lindelof di chuyển để gây áp lực, ngăn chặn đường chuyền vào khu vực của họ vì khoảng cách giữa họ và cặp hậu vệ biên Leicester là quá lớn. Nếu Castagne/Justin đứng cao hơn, đây có thể là cơ hội cho cặp hậu vệ biên Man United di chuyển để gây áp lực lấy bóng, tuy nhiên vị trí thấp hơn như trong trường hợp này đã ngăn cản họ.
Kết quả là như trong hình ảnh thứ hai, Evans chuyền lại cho Schmeichel, kéo đội hình Man United lệch sang một bên sân, mở ra khoảng trống để thủ môn Đan Mạch chuyền cho Justin. Hậu vệ phải Leicester có thể dâng lên và tiến vào 1/3 giữa sân. Hữa nữa, Albrighton lùi xuống để tạo ra một lựa chọn phối hợp với Justin nếu anh bị gây áp lực ngay lập tức hoặc đường chuyền từ Schmeichel không đủ lực/độ chính xác khiến Justin kiểm soát bóng khó khăn. Hơn nữa, Ndidi đảm bảo rằng anh đứng chéo người kèm mình để có thể phối hợp và tạo ra tình huống 3 vs 2, qua đó cho phép Leicester tịnh tiến bóng sau giai đoạn triển khai đầu thành công.
|
Ndidi và Tielemans là cặp đôi tiền vệ trụ đá gần nhau để thu hút sự chú ý của tuyến giữa Man United. Schmeichels chuyền cho Evans để kéo đội hình Man United sang bên trái sân |
|
Kết quả, khi Evans chuyền lại cho Schmeichel, Justin đang có một khoảng trống rộng lớn trước mặt. Điều này cho phép Schmeichel chuyền trực tiếp cho anh và phá vỡ lớp pressing |
Dù chiến lược này mang lại nhiều thành công nhưng Rodgers đã điều chỉnh để nó hiệu quả hơn trước những đối thủ cố gắng khắc chế nó (bằng cách hạn chế hậu vệ biên dâng cao) khi sử dụng cặp tiền vệ cánh để khắc chế hậu vệ biên, điều này cũng cho phép “Bầy cáo” tận dụng những điểm yếu trong chiến lược của đối thủ. Có thể lấy ví dụ trong cuộc chạm trán Chelsea - đối thủ sử dụng sơ đồ 4-2-3-1 khi không kiểm soát bóng, có thể coi là nỗ lực của Frank Lampard để hạn chế các con đường băng lên phía trước mà hậu vệ biên Leicester thường thực hiện.
Như minh họa dưới đây, Leicester cầm bóng cao hơn một chút so với ví dụ trước vì tình huống bắt nguồn từ việc đoạt lại bóng thay vì phát bóng lên, Chelsea triển khai đội hình 4-2-3-1 để gây áp lực. Tammy Abraham và Kai Havertz đá song song, người này áp sát trung vệ gần mình đang cầm bóng thì người kia lùi xuống để che không gian lộ ra ở trung tuyến.
Ở xa hơn, Christian Pulisic và Callum Hudson-Odoi đứng ở hành lang trong để có thể áp sát đồng thời vừa sẵn sàng chạy ngược sang hướng kia để ngăn cản Justin/Castagne nhận bóng. Bộ đôi tiền vệ trung tâm như một tấm khiên ngăn cản đối phương vượt qua đồng thời họ giữ vị trí để gây áp lực nếu các cầu thủ Leicester lùi vào không gian phía trước họ. Lý do của việc này là để ngăn cản khả năng hậu vệ biên Leicester thoát ra ở làn ngoài cùng và buộc họ phạm sai lầm.
Tuy nhiên, Leicester đã có những sự điều chỉnh và những thay đổi tinh tế tới từng chi tiết vị trí cá nhân để chống lại chiến thuật này của Chelsea. Justin và Castagne đứng cao hơn, ở vị trí rộng hơn và ngang hàng Pulisic/Hudson-Odoi - qua đó cho phép họ nhận bóng dù trong tình huống bất lợi cũng có đủ không gian để tiến lên và vượt qua lớp pressing “3-1” ban đầu hoặc di chuyển cao hơn, vượt qua các cầu thủ kèm cặp nếu Fofana/Evans cầm bóng và/hoặc di chuyển như dưới đây.
Điều này có 2 lợi ích, một là nó kéo giãn các cầu thủ chạy cánh của Chelsea và buộc họ phải quyết định xem có nên đứng yên (sẽ giúp ngăn chặn các đường chuyền đến Tielemans/Maddison) hoặc đứng ở biên để hạn chế các đường chuyền đến Justin/Castagne (điều này có khả năng mở ra các hướng chuyền bóng cho Maddison/Tielemans). Cả 2 trường hợp này đều mở ra một lối đi cho Leicester phối hợp và triển khai ở 1/3 đầu sân.
Hơn nữa những thay đổi của Leicester cũng ảnh hưởng đến trung lộ khi Rodgers chỉ dùng 1 tiền vệ trụ, qua đó cho phép Tielemans dâng cao hơn thành sơ đồ 4-3-3 và đứng song song Maddison, lần lượt lựa chọn vị trí ở hành lang trong bên phải và trái. Kết quả, nó tạo ra một trung tuyến 2 vs 2, Ndidi về lý thuyết không quá lợi thế nhưng khi xem xét việc nếu Mount không thể theo Maddison (sẽ được khám phá ở sau đồ họa tiếp theo) thì nó trở thành một vấn đề của Chelsea mà Leicester có thể khai thác.
Một lần nữa, Barnes/Albrighton/Vardy vẫn ở vị trí cao để “ghim” lần lượt Reece James/Ben Chilwell và Thiago Silva/Antonio Rudiger dù Albrighton/Barnes đã bó vào trong nhiều hơn ví dụ trước với Manchester United vì Justin/Castagne di chuyển ra biên để đảm bảo họ vẫn giữ các tuyến dọc khác nhau.
|
Castagne dâng cao hơn để nhận bóng phía sau Pulisic và phá vỡ lớp pressing cũng có thể là một phương án. Rodgers chỉ sử dụng 1 tiền vệ trụ để Maddison và Tielemans tạo thành thế đối đầu 2 vs 2 với Mount và Kovacic. Tuy nhiên Fofana quyết định chuyền cho Evans |
Hệ quả của những thay đổi trên là Leicester tái tạo khả năng thoát pressing ở cánh vì sự điều chỉnh ở vị trí hậu vệ biên đồng thời tạo thêm khả năng khai thác hàng tiền vệ lùi sâu không thể phòng thủ hiệu quả của Chelsea. Tuy nhiên trọng tâm của ví dụ dưới đây vẫn nằm ở sự thích nghi khi chuyển sang sơ đồ 2 tiền vệ trụ. Những lợi ích có thể được nhìn thấy trong minh họa bên dưới, vị trí cao của Tielemans/Maddison tạo ra không gian sâu hơn ở các hành lang trong cho bộ đôi có thể xâm nhập vào và phối hợp nếu họ muốn, nếu bị áp sát họ có thể chuyền bóng một cách thuận lợi đồng thời mở ra cơ hội với nhiều hướng chuyền trực diện cho Barnes/Vardy/Albrighton.
Tuy nhiên, nếu không bị theo kèm, họ có thể nhận bóng với hướng cơ thể mở hơn và chuyền lên phía trên để phá vỡ tuyến tiền vệ Chelsea. Ngoài ra, nếu cả hai có thể khai thác sự thiếu hiệu quả của Kovacic và Mount, họ có thể nhận bóng ở sau hàng tiền vệ Chelsea hoặc trở thành người bổ sung thêm bất cứ lúc nào cần thiết.
Khi Evans nhận bóng từ Fofana và chuyền cho Justin, Maddison di chuyển vào điểm mù của Mount đồng thời tiếp tục giữ cơ thể mở và quét các hướng rồi nhận bóng để nếu được chuyền trong tình huống này, anh không chỉ có thể phá vỡ lớp pressing Chelsea mà còn là tuyến tiền vệ của họ. Trong khi đó, Justin cũng lùi xuống để nhận bóng, mở ra không gian trước mặt anh ở cánh. Không cầm bóng, Tielemans vẫn ở phía đối diện để cô lập Kovacic và đảm bảo cả 2 tiền vệ lùi sâu của Chelsea đều ở những thế đối đầu 1 vs 1.
Như vậy, với việc Maddison đứng ở điểm mù và không bị Mount theo kèm, ngay khi Justin nhận bóng anh có thể vượt qua Hudson-Odoi và chuyền cho Maddison - người đã mở không gian để di chuyển, trở thành người hỗ trợ và nhận bóng ở cánh. Điều này cho phép Ndidi xâm nhập vào khoảng không bỏ trống ở trung lộ và cho phép Leicester tạo ra các thế 3 vs 2/ 4 vs 3 ở các khu vực cánh (không bao gồm/bao gồm Barnes). Kế đến Maddison phối hợp một hai với Barnes để loại James và triển khai thế trận tấn công vào tuyến phòng thủ Chelsea.
|
Ndidi vẫn là tiền vệ đá thấp nhất, Maddison và Tielemans đứng cao hơn ở các hành lang trong tương ứng của họ. Điều này cho phép họ di chuyển linh hoạt để xâm nhập vào (khu vực trống màu xanh) và phối hợp; hoặc thoát khỏi sự kèm cặp để nhận bóng/trở thành một người bổ sung cho tình huống |
|
Khi Maddison đã thoát khỏi Mount và thành một người bổ sung thêm đứng ở hành lang biên, tạo ra thế 3 vs 2 hoặc 4 vs 3 (không bao gồm/bao gồm Barnes) và giúp Leicester vượt qua lớp pressing của Chelsea. Những pha phối hợp một hai liên tiếp giữa Maddison và Barnes khiến tuyến cuối của Chelsea bị xuyên thủng |
Tuy nhiên nếu những chiến lược ở trên khả thi với những lối pressing tầm cao, chúng trở nên hơi yếu khi đối đầu đối thủ lựa chọn giữ một khối tầm trung và không gây áp lực quá gắt lên hàng thủ Leicester. Chính trong tình huống này, Leicester đã có những thay đổi để triển khai bóng một cách tích cực.
Như hình ảnh bên dưới, khi được giao nhiệm vụ với các tình huống tương tự như thế trước khối tầm trung của Manchester United, Fofana cầm bóng trong vai trò trung vệ lệch phải, Tielemans lùi xuống làm hậu vệ biên ảo để thu hút đối phương rời khỏi cấu trúc vững chắc của họ và chuyền xuyên qua tuyến tiền vệ (Tielemans lùi sâu hơn Ndidi 5/10yd trong quá trình triển khai là điều thường xuyên diễn ra trong một không gian không bị gây áp lực).
Kết quả pha di chuyển này của Tielemans là Rashford bị phân vân giữa việc vẫn đứng thấp bên cạnh Castagne (nếu như vậy cho phép Tielemans có thể tiên lên, đi vào vị trí của Maddison - người đang “trốn” ở điểm mù giữa McTominay và Fred) hoặc tiến lên áp sát Tielemans. Rốt cuộc, tiền đạo người Anh chọn phương án hai. Do đó, khi Tielemans nhận bóng, Rashford không pressing hết sức, Castagne có thể dâng cao hơn Rashford và nhận đường chuyền để phá vỡ cấu trúc của Man United.
|
Tielemans lùi xuống thành hậu vệ ảo, đứng giữa Evans và Castagne. Hành động này để hút Rashford rời khỏi vị trí, ra khỏi cấu trúc chặt ở giữa và tạo cơ hội để Leicester triển khai ở phía sau tuyến tiền vệ Man United |
Tielemans chuyền bóng vượt ngoài tầm kiểm soát của Rashford đến Castagne đồng thời Leicester cũng cô lập Lindelof trong thế 2 vs 1 để xuyên thủng tuyến cuối cùng. Khi Castagne di chuyển vào làn ngoài cùng, Barnes có thể bó vào trong so với Lindelof - vị trí đặt ra nhiều vấn đề cho Lindelof, anh vừa không thể gây áp lực lên Castagne vừa không thể ngăn cản Barnes di chuyển vào điểm mù.
Để khai thác điều này, Barnes chạy rất khéo để Lindelof không thể theo dõi đường chạy của anh vì trung vệ Thụy Điển phải để ý Castagne ở phía trước, từ đó Castagne chuyền cho Barnes đứng ở không gian hợp lý và hoàn thành quá trình xuyên phá Man United chỉ bằng 2 đường chuyền. Vardy đứng giữa Bailly và Maguire, đảm bảo Bailly không thể ra bọc lót ngăn chặn đường chạy của Barnes (nếu làm vậy, anh sẽ mở ra một hướng chuyền trực tiếp từ Castagne đến Vardy ở khu vực giữa nguy hiểm hơn). Một lần nữa, điều này cho thấy thay đổi tinh tế giúp Leicester vẫn duy trì được việc triển khai bóng ngay cả khi đối đầu những đối lựa chọn chiến thuật chặt chẽ hơn.
|
Khi Castagne nhận bóng, Leicester đã thành công trong việc phá khối giữa sân của Man United và xuyên thủng nó. Vị trí đứng khá cao của Castagne cho phép Barnes bó vào trong, vượt qua Lindelof nhờ một pha chạy chỗ vào điểm mù để Leicester triển khai bóng ra phía sau tuyến phòng ngự "Quỷ đỏ" |
TẬP TRUNG TẤN CÔNG VÀO CÁNH
Khi Leicester đã tiến vào phần sân đối phương, phần lớn sức mạnh tấn công của họ dựa vào các pha phối hợp ở cánh để tịnh tiến. Điều đầu tiên cần xem xét là sử dụng các pha underlap (chạy khai thác không gian, đường chạy hướng vào hành lang trong), ví dụ có thể kể ra là tình huống đối đầu bộ tứ vệ Man United ở minh họa dưới đây, sau khi họ đã thực hiện những đường chuyền ban đầu và chuyền bóng qua lại để khai thác không gian.
Khi Maddison chuyền bóng cho Albrighton - người đang đứng ở biên để kéo giãn khối phòng ngự Man United theo phương ngang và mở ra không gian cho một pha underlap, Justin chạy thẳng vào giữa Shaw/Maguire và đứng ở điểm mù của Shaw để đảm bảo rằng đường chuyền thành công từ Albrighton sẽ giúp anh nhận bóng ở hành lang trong. Khi đường chuyền được thực hiện, Shaw áp sát Albrighton - người đã tạo ra khoảng trống cần thiết để Justin khai thác và nhận bóng ở hành lang trong phía sau Shaw.
Nếu Shaw không áp sát, pha underlap sẽ không thể thực hiện và thay vào đó Man United vẫn giữ được sự liên kết. Tuy nhiên anh vẫn có thể nhờ vị trí đứng của Justin khi Maddison thực hiện đường chuyền đầu. Trong khi đó cũng phải dành lời khen cho vị trí đứng khá gần của Tielemans, Ndidi và Maddison ở trung lộ, tạo ra cơ hội cho những tình huống underlap. Với một trung lộ chật chội như vậy, họ thu hút nhiều áp lực và giải phóng cho khu vực cánh để Justin tấn công thoải mái khi Rashford không ở đủ gần để bọc lót (vì Rashford phải đứng ở giữa để duy trì khối kết dính và ngăn chặn những đường xuyên phá qua trung lộ Man United).
Do đó, khi Albrighton nhận bóng, anh có thể chuyền cho Justin - người đang ở hành lang trong, có cơ hội vượt qua Maguire hoặc tạt cho Vardy. Hậu vệ người Anh lựa chọn phương án thứ hai và một lần nữa Vardy đứng giữa 2 trung vệ, song trong tình huống này áp sát vì đang dâng khá cao. Điều này cho phép Barnes thực hiện một quả tạt đến Vardy, và nếu tình huống tạt bóng ấy tốt hơn bàn thắng đã có thể đến.
|
Sau khi Tielemans chuyền bóng cho Albrighton để thu hút Shaw, Barnes thực hiện một pha underlap vào điểm mù của Shaw để nhận bóng ở hành lang trong |
|
Maguire bị hút vào tình huống 1 vs 1 với Barnes. Vardy chạy vượt qua Bailly để sẵn sàng đón quả tạt |
Dù vậy, điều này làm dấy lên câu hỏi tại sao Leicester thường sử dụng các pha underlap bên cánh phải trong đó Albrighton thường xuyên đứng ở sát biên, trong đó các tình huống overlap (chạy khai thác không gian, đường chạy hướng ra biên) thường ít được sử dụng khi Barnes bó vào trong và mở ra cơ hội cho cả Castagne/Justin (cả hai đều đá được cả 2 cánh ở hàng hậu vệ) băng lên. Lợi ích của underlap so với overlap sẽ được khám phá bên dưới.
- Trước hết, underlap cho phép cầu thủ cầm bóng nâng cao khả năng nhận thức và có thể đưa ra quyết định tốt hơn để kiểm soát bóng - một điều rất quan trọng với lối chơi dựa trên kiểm soát bóng như của Leicester. Khi cầu thủ chạy cánh cầm bóng đứng ở sát biên, anh sẽ có nhiều cơ hội khả dĩ để chuyền trong khi anh cũng được gia tăng khả năng quan sát những sự thay đổi tình huống để cuối cùng đưa ra phương án phù hợp nhất.
Ưu tiên sẽ là khai thác underlap để chuyền bóng vào hành lang trong vượt qua hậu vệ biên đối phương nhưng bên cạnh đó anh cũng có thể chuyền ngang và sử dụng underlap làm tình huống phối hợp với cầu thủ thứ ba, tạt bóng trực tiếp vào vòng cấm hoặc chuyền ngược lại để duy trì quyền kiểm soát, tất cả đều ít gây áp lực ngay lập tức lên người cầm bóng.
So sánh với overlap, cầu thủ biên sẽ phải rê vào trong để mở ra không gian ở hành lang ngoài cho cầu thủ overlap và thường chọn vị trí ở hành lang trong. Điều này hạn chế đi khả năng nhận thức của anh vì đương nhiên cầu thủ overlap sẽ chạy qua điểm mù của cầu thủ cầm bóng và đặt anh vào tình thế bất lợi. Cộng thêm việc đối phương gia tăng áp lực có thể ngay lập tức khiến cầu thủ cầm bóng đứng thiên về giữa sân nhiều hơn cũng như cơ hội chuyền ngược lại cũng bị ít đi vì sự đông đúc và áp lực tiềm ẩn ở sau. Dù phải khẳng định rằng vẫn có cơ hội, song overlap trong tình huống này sẽ cho ra kết quả ít hơn so với underlap.
- Thứ hai, dựa vào tiền đề thành công của mỗi phương án, underlap tạo ra nhiều khả năng xâm nhập vào khu vực nguy hiểm hơn. Underlap thường xâm nhập vào hành lang trong (phụ thuộc và độ dài và lực đường chuyền). Điều này mang lại nhiều lợi ích hơn cho các đội sử dụng chiến thuật này khi cầu thủ có thể nhận bóng ở khu vực nguy hiểm hơn, gần khung thành hơn để tung một cú dứt điểm.
Trong trường hợp của Leicester có thể Vardy/Maddison trong vòng cấm địa hoặc nhả lại cho Tielemans/Ndidi ở rìa vòng cấm. Ngược lại, overlap chỉ cho phép xâm nhập vào hành lang ngoài - khu vực ít nguy hiểm hơn ở trên sân và cầu thủ nhận bóng bị hạn chế khả năng tạt ở cánh. Có thể sẽ có lập luận rằng cầu thủ overlap sẽ tiến vào hành lang trong khi anh ta nhận được bóng, tuy nhiên điều này tùy thuộc vào hậu vệ biên đối phương không đoạt bóng kịp thời để hạn chế những bước tịnh tiến, điều rất hiếm khi xảy ra.
- Thứ ba, underlap ảnh hưởng nhiều hơn đến khả năng phòng ngự của hậu vệ trong tình trạng thiếu hỗ trợ. Underlap tạo ra lợi thế cho đội tấn công, do bản chất của việc cầu thủ underlap chạy vào điểm mù của hậu vệ khiến anh ta không thể tập trung vào cả hai cầu thủ trong tình huống 2 vs 1. Hậu vệ sẽ phải lựa chọn giữa việc cố gắng áp sát cầu thủ cầm bóng hay ngăn chặn đường chuyền cho cầu thủ underlap, qua đó giúp họ khai thác hậu vệ ở thời điểm ấy.
Nếu hậu vệ chọn tập trung vào phía trước và cầu thủ cầm bóng, đây là cơ hội cho cầu thủ underlap nhận bóng trong không gian rộng hơn vì hậu vệ đã bị hút vào trái bóng và bỏ lại khoảng trống phía sau.
Tuy nhiên nếu hậu vệ chọn đi theo đường chạy của cầu thủ underlap và nhường lại không gian phía trước, cầu thủ cầm bóng sẽ có cơ hội di chuyển và tạt từ khu vực gần hơn. Trong khi đó, overlap cho phép hậu vệ vẫn giữ vị trí để quan sát cả cầu thủ cầm bóng lẫn cầu thủ overlap. Trong tình huống này, hậu vệ có thể trì hoãn quyết định về việc áp sát cầu thủ cầm bóng hay theo cầu thủ overlap vì anh vẫn giữ vị trí cho đến khi bóng được chuyền cho cầu thủ overlap và lúc này bắt đầu di chuyển để hạn chế sự tịnh tiến của cầu thủ nhận bóng, qua đó giảm tầm ảnh hưởng của anh ta.
Sẽ thật ngây thơ nếu cho rằng overlap không mang lại lợi ích gì, ví dụ như ở phía cánh trái nơi Barnes đôi khi cố gắng đi vào trong để phối hợp hoặc dứt điểm, nó tạo ra cơ hội hữu ích để chuyền bóng ra phía sau hậu vệ biên đối phương. Tuy nhiên, dựa trên nhận thức về khái niệm, có lẽ underlap giá trị hơn và đó là lý do Leicester sử dụng nó khá tốt.
Một kết hợp khác được sử dụng trong lối chơi tấn công biên của Leicester là tận dụng khả năng thực hiện những đường chuyền bật nhả để chuyền ra phía sau khối đội hình cho người thứ ba. Ví dụ dưới đây mô tả phương án này hữu ích thế nào, đặc biệt trong việc thu hút áp lực về một vị trí trên sân trước khi khai thác không gian được tạo ra ở khu vực khác bằng cách sử dụng tiền vệ biên ở hành lang trong và hậu vệ biên ở hành lang ngoài.
Như ở hình dưới, Evans cầm bóng và thoát khỏi sức ép không đáng kể từ Martial, Barnes tận dụng cơ hội này để lùi lại 1yd nhận bóng. Khi trái bóng đến vị trí tiền vệ người Anh, Lindelof lao lên gây áp lực để buộc Barnes phải chuyền ngược lại, qua đó ngăn chặn việc tịnh tiến bóng hoặc cũng có thể khiến chất lượng đường chuyền ngược lại bị ảnh hưởng (để cầu thủ ở tuyến trên lùi xuống pressing).
Nếu trung vệ người Thụy Điển không áp sát, Barnes sẽ có cơ hội nhận bóng trong tư thế xoay nửa người và xộc thẳng vào hàng phòng ngự Man United. Trong khi đó, nếu anh áp sát trước khi bóng được chuyền đi, Tielemans sẽ có thể không tham gia vào pha phối hợp và bóng được chuyền thẳng đến Castagne (cả hai tình huống thường xuyên diễn ra trong lối chơi của Leicester). James/McTominay ở hai bên của Barnes trong tình huống này đều không thể gây áp lực một cách hiệu quả vì Barnes đứng ở phía sau họ và họ không đủ gần để cắt bóng. Khi Barnes nhận bóng, anh thu hút áp lực của cả Lindelof lẫn James và McTominay trước khi chuyền về cho Tielemans. Do đó, từ chính pha di chuyển của Barnes, Tielemans và Castagne đã được đặt vào tình huống thoải mái hơn, cả hai không còn áp lực trước đó mà McTominay/James thể hiện.
|
Barnes nhận bóng dưới áp lực khá dữ dội, anh chuyền cho Tielemans để Castagne khai thác không gian phía sau Lindelof |
Kết quả là Tielemans thoải mái chuyền cho người thứ 3 (chính là Castagne) đang chạy ra phía sau hàng tiền vệ Man United cũng như Lindelof. Chi tiết pha chạy chỗ của Castagne cũng rất quan trọng, nó được củng cố bởi đường chuyền ban đầu từ Evans cũng như nhãn quan của Barnes. Nếu Evans chuyền nhẹ hơn, nó kéo Barnes lại, kết hợp với việc Barnes đang nhận bóng dưới áp lực, điều này có thể khiến Castagne bắt đầu chạy trước khi Barnes nhận bóng vì lựa chọn duy nhất có thể hình dung là nhả bóng lại phía sau - điều đó sẽ báo trước cho đối thủ biết bóng sẽ được chuyền ra phía sau tuyến tiền vệ cho người thứ 3.
Ngược lại, nếu Evans chuyền mạnh hơn, nó sẽ hạn chết khả năng triển khai với ý đồ tương tự vì chưa chắc Barnes và Tielemans đã có thể chơi bóng một chạm (hoặc cả hai buộc phải kiểm soát bóng trước khi hướng chuyền cho Castagne đã bị hạn chế đi vì James có thể thu hồi được).
|
Lúc này Castagne có các lựa chọn là tạt vào cho Vardy, chuyền cho Maddison hoặc giữ bóng chờ |
Để thích nghi và nâng cấp miếng đánh này, Leicester đã sử dụng một cách tiếp cận linh hoạt để đảm bảo rằng “các tam giác ở biên” của họ (bao gồm tiền vệ tấn công, hậu vệ biên và tiền vệ biên ở lần lượt hai cánh) có thể di chuyển nhuần nhuyễn, xâm nhập, sử dụng những pha phối hợp một chạm dù là đối mặt với ít hay nhiều cầu thủ đối phương trong tình huống.
Điều này được thể hiện trong minh họa đầu tiên, khi hậu vệ biên (Justin/Castagne) chuyền cho tiền vệ biên (Barnes/Albrighton) đứng ở sát biên, hành động này như một thông báo cho tiền vệ tấn công (Maddison) chạy vào giữa hậu vệ biên ở gần mình và trung vệ. Kết quả, vì hậu vệ biên không thể đuổi theo do đang phải áp sát tiền vệ cánh (nếu anh ta theo sẽ tạo điều kiện cho tiền vệ biên đi bóng vào trong) khiến cả tiền vệ trung tâm hoặc trung vệ buộc phải đi theo.
Trong tình huống này, chúng ta giả định rằng trung vệ đi theo đường chạy có khả năng phán đoán hành động sẽ diễn ra (dù những hành động tiếp theo vẫn có thể thực hiện được ngay cả khi tiền vệ trung tâm đi theo). Trong khi đó, cùng thời điểm, hậu vệ biên của Leicester xộc thẳng vào khoảng trống mà tiền vệ tấn công để lại với mục đích nhận bóng (nếu tiền vệ trung tâm đối phương không đi theo tiền vệ tấn công như dưới đây, điều quan trọng là hậu vệ biên của Leicester vẫn giữ bóng ở gần người này để tạo ra overlap sau đó).
Do đó, điều này cho phép tiền vệ cánh thực hiện nhanh đường chuyền cho hậu vệ biên đang đứng ở vị trí mới bên ngoài hành lang trong. Làm điều này, Leicester đã tạo ra tình huống 3 vs 2 tạm thời trước cặp trung vệ đối phương khi tiền vệ tấn công thu hút một người và tiền đạo (Vardy) giữ người kia ở trung lộ để đảm bảo anh ta không thể chạy đi bọc lót.
Điều này sẽ mở ra hai hành động tiềm năng tiếp theo. Tình huống thứ nhất sẽ là chuyền bóng vào giữa cặp trung vệ và tiền vệ tấn công di chuyển (có thể chạy ngang người kèm hoặc chạy ra phía sau anh ta - cả 2 trường hợp đều hiệu quả), giúp anh đứng ở vị trí chuyền cho tiền đạo hoặc dứt điểm. Tình huống thứ hai là sẽ cố gắng tung đường chuyền khó vào cho tiền đạo và tạo ra cơ hội trực tiếp để ghi bàn, dù phương án này sẽ khả dĩ nếu trung vệ đối phương dịch sang để giảm khoảng cách ở hàng ngang giữa anh ta và trung vệ còn lại, qua đó cho phép một đường chuyền được thực hiện qua anh ta, đến chỗ tiền đạo.
|
Để tấn công trong tình huống 3 vs 4 thế này, nên chuyền bóng cho tiền vệ cánh còn tiền vệ tấn công di chuyển vào không gian giữa trung vệ và hậu vệ biên. Hậu vệ biên của Leicester đã di chuyển vào khoảng trống này |
|
Khi hậu vệ biên nhận bóng sau pha phối hợp đập nhả, anh đã tạo ra tình thế 3 vs 2 trước cặp trung vệ đối thủ. Từ đó, anh có thể chuyền cho tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo |
Nhưng dù đạt hiệu quả cao trong các chiến lược tấn công thì Leicester cũng gặp nhiều trở ngại bởi nhiều chiến lược của đối thủ, cụ thể như khối đội hình chặt chẽ và sơ đồ 5-4-1 mà Newcastle sử dụng để vô hiệu hóa khả năng tấn công biên của Leicester.
Như minh họa bên dưới, trong hiệp 1 trận đấu với Newcastle, các khu vực cánh đã bị khóa lại. Các tiền vệ biên của Newcaslte đã chọn vị trí để đảm bảo hành lang trong cũng bị khóa lại. Hơn nữa, Barnes bị cô lập ở mọi phía nếu anh được chuyền bóng ở hành lang trong. Trong ví dụ dưới đây, nếu Castagne quyết định tiếp tục dâng lên ở cánh, anh sẽ trong tình thế 1 vs 2 và cuối cùng dẫn đến khả năng mất bóng. Do đó, anh buộc phải chuyền vào trong cho Ndidi/Tielemans mà sau đó Newcastle sẽ gây áp lực, dẫn đến những sai lầm có thể xảy ra giúp Newcastle đoạt bóng. Kết quả là, cách duy nhất để Leicester xâm nhập là đưa bóng cho Maddison - người vẫn được tự di chuyển ở bất cứ không gian nào có thể để phát triển và tịnh tiến bóng.
|
Để hạn chế khả năng tấn công biên hiệu quả của Leicester, Almiron đã chặn hướng chuyền đến Barnes và dụ Castagne dốc biên, kéo anh vào thế 1 vs 2. Do đó, bóng thường được chuyền cho Ndidi/Tielemans, cả hai đều bị anh em nhà Longstaff sẵn sàng gây sức ép |
Do đó, để có thể tiếp tục xâm nhập, Rodgers đã thay đổi trong hiệp 2 khi bốn cầu thủ tấn công có nhiệm vụ kéo giãn đội hình đối phương. Đây là một điều khá rõ ràng bởi Newcastle lựa chọn sử dụng khối phòng ngự lùi sâu. Đặc biệt, Barnes được tự do di chuyển ra phía sau tuyến tiền vệ Newcastle và nhận bóng ở trung lộ để tránh những khu vực đông người.
Vardy/Albrighton cũng có thể linh hoạt đổi chỗ trong những tình huống này, Vardy chủ yếu đứng ở giữa để thu hút hậu vệ đối phương dù khi anh đổi chỗ thì chủ yếu dựa trên cơ sở vị trí với Barnes hoặc Maddison. Ngược lại, Albrighton có cấu trúc vị trí tốt nhất trong số 4 cầu thủ tấn công nhưng sẽ di chuyển vào giữa hành lang biên hoặc hành lang trong tùy thuộc vào vị trí của hậu vệ phải để đảm bảo Leicester luôn có người đứng ở các tuyến ngang/dọc của đối phương, qua đó dễ phối hợp hơn.
Như đã nói, thay vì vẫn ở trong một vị trí có cấu trúc, Barnes di chuyển vào trung tâm khi kiểm soát bóng và trong quá trình này, họ có khả năng xâm nhập ở giữa sân khi các tiền vệ trung tâm Newcastle bị đặt vào tình thế 2 vs 3 khi Tielemans cầm bóng phía trước họ. Jonjo Shelvey/Matty Longstaff đứng trước tình thế khó xử, nếu họ áp sát Tielemans thì anh sẽ dễ dàng chuyền qua họ, còn nếu họ vẫn đứng trước Maddison/Barnes thì Tielemans sẽ được phép tịnh tiến.
Cuối cùng thì họ không chọn 2 phương án đó, Longstaff gây áp lực nửa vời với Tielemans và Maddison có thể di chuyển ra cánh để thoát khỏi vùng được khoanh tròn trong hình dưới, mở ra hướng chuyền bóng cho đồng đội để nhận ở phía sau tuyến tiền vệ. Khi Maddison nhận bóng, anh đứng ở điểm mù và có thể tạo cơ hội trực tiếp cho Vardy hoặc cầm bóng thận trọng, tạo thành mối đe dọa nguy hiểm cho hàng tiền vệ và phòng ngự Newcastle.
Một tình huống khác sử dụng phương án người thứ 3 là Justin ở vị trí hậu vệ phải, đảm bảo Leicester duy trì quyền kiểm soát bóng nhưng vẫn giữ đà tấn công.
|
Barnes di chuyển vào giữa, tạo ra thế 3 vs 2 cùng Tielemans/Ndidi để xuyên thủng trung lộ và tránh khu vực cánh đông đúc |
|
Kết quả, Tielemans có thể chuyền cho Maddison - người có thể chọn chọc khe cho Vardy hoặc giữ bóng phối hợp với người thứ 3 là Justin |
CÁC CÁCH PRESSING
Bây giờ hãy chuyển sang lối chơi của Leicester khi không kiểm soát bóng, họ pressing tích cực với những vai trò linh hoạt để đòi lại bóng mà chủ yếu là ở cánh.
Ví dụ đầu tiên là trong cuộc đối đầu Chelsea, sự di chuyển linh hoạt cho phép họ đặt các bẫy pressing ở cánh, ngăn cản Chelsea chuyền bóng vào trung tâm - khi đó đang có 3 tiền vệ trung tâm cũng như Pulisic/Abraham/Hudson-Odoi đang di chuyển tự do và nhận bóng ở khoảng trống. Khi Edouard Mendy cầm bóng, Vardy là người gây áp lực chính trong khi Albrighton đứng giữa Silva và Chiwell mà khoảng cách với Chiwell xa hơn để “mời” thủ môn Chelsea chuyền bóng cho hậu vệ Anh.
Ngoài ra, Maddison lùi sâu để đảm bảo Leicester trong thế 3 vs 3 với hàng tiền vệ Chelsea, trong khi Barnes lùi xuống sâu hơn James (đây là do Mendy đang có định hướng chuyền sang phía bên trái của anh). Nếu, Chelsea không triển khai bóng qua Chilwell, Leicester vẫn giữ cân bằng ở bên cánh trái và giữa, Vardy có thể lùi xuống pressing để đảm bảo lợi thế quân số. Điều này khiến hàng phòng ngự của Leicester ở trong thế 4 vs 3 với bộ ba ấn công của Chelsea. Kết quả của tình huống này đúng như dự đoán, Mendy chuyền cho Chilwell.
|
Khi Mendy cầm bóng, Albrighton đứng giữa Silva và Chilwell, "mời" thủ môn Chelsea chuyền cho Chilwell |
Cách này được sử dụng để lôi kéo Chelsea vào cảm giác an toàn giả, Leicester tạo ra cái bẫy để đoạt lại bóng ở cánh bằng cách bóp nghẹt không gian sẵn có của Chilwell cũng như hạn chế các lựa chọn chuyền bóng của anh bằng cách áp đảo ở khu vực cánh trái (theo hướng tấn công Chelsea) từ mọi hướng.
Khi Chilwell nhận bóng, Albrighton chạy về để ngăn đường chuyền ngược cho Silva bằng cách pressing mạnh mẽ từ phía sau. Tương tự như vậy, Vardy cũng di chuyển vào vị trí bao quát ở trục giữa và ngăn chặn đường chuyền đến chân Kovacic - người đã lùi xuống - để đảm bảo rằng Chilwell chỉ có lựa chọn duy nhất là hướng về phía trước (nếu quay ngược lại, anh sẽ bị Albrighton gây áp lực).
Ngoài ra, Tielemans gây sức ép từ bên phải Chilwell để gia tăng áp lực và ép hậu vệ người Anh ra cánh, trong khi đó khả năng Harvertz có thể hỗ trợ bằng cách nhận bóng ở trong bị ngăn cản khi Tielemans vẫn để mắt tới anh (bóng đen trong hình) trong khi Ndidi dâng lên để tạo áp lực trực tiếp. Trong tình huống Havertz bị đặt vào thế 1 vs 2, Mount thì bị Maddison khóa ở giữa để hạn chế khả năng nhận bóng, Chilwell không còn lựa chọn nào khác.
Chilwell tiến về phía Pulisic đang bị Castagne kèm và Fofana - người đã dâng lên hỗ trợ - cũng đứng bọc lót. Do đó, Chelsea bị áp đảo trong một tình huống 3 vs 5 và giúp Leicester có thể đoạt lại quyền kiểm soát bóng nếu Chilwell chuyền hoặc mắc sai lầm trong lúc cầm bóng ở khu vực này. Đây là minh chứng về bẫy pressing mà Leicester đã dùng rất tốt trong mùa giải này.
|
Khi Chilwell nhận bóng, Albrighton gây áp lực từ phía sau để ngăn hậu vệ Anh chuyền về. Tielemans áp sát từ trong, Ndidi bọc lót còn Castagne "khóa" Pulisic. Từ đây, tình huống 5 vs 3 được tạo ra giúp Leicester có thể đoạt bóng |
Leicester cũng có thể áp dụng hệ thống bẫy pressing ở trục giữa trong các tình huống họ có lợi thế ở đây, ví dụ như trước đội hình 5-4-1 của Newcastle - tình huống mà Leicester muốn ngăn đối phương triển khai ở wing-back mà thay vào đó là ở trung lộ nơi “Bầy cáo” có nhiều người hơn.
Như minh họa dưới đây, khi trung vệ giữa chuyền bóng cho trung vệ lệch cánh, đó như lệnh kích hoạt để Leicester gây áp lực. Thay vì “mời” đối phương ra cánh, Barnes chạy pressing hướng vào trong để ngăn chặn đường chuyền cho DeAndre Yedlin đồng thời gây áp lực đáng kể lên chính Federico Fernandez. Song song đó, Vardy đứng hơi lệch với Fabian Schar để ngăn anh nhận bóng, đảm bảo hậu vệ Thụy Sĩ vẫn bị nằm trong tầm quan sát. Điều này khiến Fernandez chỉ còn 2 lựa chọn: hoặc chuyền lên hoặc chuyền về cho thủ môn Karl Darlow.
Nếu Fernandez chuyền về, Vardy đã sẵn sàng gây áp lực lên Darlow để buộc thủ môn người Anh phải chuyền dài lên, tạo cơ hội cho Leicester giành lại quyền kiểm soát bóng thông qua không chiến - một điều có thể xem là lợi thế khi hàng công Newcastle không có chiều cao tốt. Hơn nữa, Albrighton di chuyển vào giữa sân để kết hợp với Maddison kèm anh em nhà Longstaff và gây áp lực nếu họ nhận bóng.
Ở phía sau, Ndidi và Tielemans đều ở những vị trí kèm hoặc ngăn hướng chuyền đến Miguel Almiron/Joelinton, trong khi Evans/Fofana đều bao quát để chạy theo bất cứ pha di chuyển nào vượt ngoài tầm kiểm soát của hàng tiền vệ nếu Tielemans/Ndidi không thể làm. Về bản chất, điều này tạo ra một khu vực áp đảo quân số để Leicester giành lại quyền kiểm soát.
Do đó, dù Fernandez chuyền như thế nào - như hình thứ hai ở dưới, Leicester vẫn ở vị trí có thể gây áp lực ở giữa để đoạt lại bóng và chuyển đổi trạng thái tấn công. Ngoài ra, bất cứ cầu thủ nào chiếm lĩnh không gian giữa Tielemans/Ndidi cũng có cơ hội cho Leicester gây áp lực kép và giúp Leicester giành lại bóng, khi đó Vardy lập tức di chuyển vào khoảng trống giữa bộ ba trung vệ Newcastle.
Tuy nhiên trong thực tế, tình huống không diễn ra lý tưởng như vậy. Sau khi nhận ra sự áp đảo này, Newcastle dường như không muốn dính vào “chiếc hộp trung lộ” của Leicester nên đã chơi trực diện hơn, hạn chế phối hợp giữa sân. Song, khả năng thích ứng của Leicester rất tốt.
|
Vardy buộc Schar chuyền cho trung vệ lệch cánh, Barnes di chuyển vào trong để gây áp lực, Albrighton cũng dạt vào giữa tạo ra thế 4 vs 3 cho Leicester để đoạt bóng |
|
Kết quả là khi Newcastle chuyền vào khu vực này, Leicester có thể áp sát đoạt lại bóng. Dù vậy tác động của nó khá hạn chế bởi lối chơi trực diện của Newcastle |
Tuy nhiên không phải tất cả chiến lược pressing của Leicester đều hiệu quả như những ví dụ trên. Những sự lúng túng của Leicester trước Manchester United đã tạo điều kiện để “Quỷ đỏ” thoát khỏi pressing ở 1/3 sân đầu tiên của mình.
Như ở minh họa thứ nhất ở dưới, Leicester dự định buộc Man United rơi vào bẫy pressing ở cánh và đoạt lại bóng. Khi Eric Bailly cầm bóng, Vardy gây áp lực ở góc có thể ngăn một đường chuyền ngăn đến Harry Maguire đồng thời giữ vị trí đủ gần với David de Gea để buộc trung vệ Bờ Biển Ngà phải chuyền cho Victor Lindelof. Giống như trước đó, Barnes gây áp lực ở góc có thể cắt đường chuyền vào giữa và buộc Lindelof cầm bóng vào các bẫy pressing với Castagne và James giăng ra.
Ở giữa sân, Maddison đối diện Scott McTominay trong khi Albrighton di chuyển để gây ảnh hưởng lên Fred theo cách tương tự. Ở sâu hơn, cặp đôi tiền vệ trụ Tielemans/Ndidi ban đầu giữ thế 2 vs 1 với Bruno Fernandes, trong khi Anthony Martial chiếm không gian giữa tuyến phòng ngự và tiền vệ nhưng dường như không thể tạo ra nguy hiểm ngay lập tức. Kết quả có thể dự đoán là Leicester buộc đối thủ mắc sai lầm nhờ các bẫy pressing ở cánh rồi đoạt lại bóng. Tuy nhiên, sau khi Lindelof nhận bóng, một sự hoán đổi đơn giản giữa Fernandes và Martial khiến hệ thống pressing có cấu trúc của Leicester bị bẻ gẫy, cộng thêm một tình huống áp sát/gây áp lực không hiệu quả của Barnes khiến Man United thoát khỏi bẫy.
Kết quả được thể hiện trong hình thứ hai, Barnes không thể hoàn toàn ngăn Lindelof chuyền vào giữa khi những bước chạy của anh không đủ áp lực để buộc Lindelof chuyền ra cánh trước khi Martial hoán đổi vị trí với Fernandes. Nếu Barnes duy trì tối đa sức ép hiệu quả và ngăn được đường chuyền vào giữa, khả năng Man United phá vỡ lớp pressing sẽ bị ngăn chặn từ đầu.
Martial sau khi hóan đổi vị trí với Fernandes và đứng ở điểm mù của Ndidi/Tielemans có khoảng trống để nhận bóng giữa “chiếc hộp trung lộ” của Leicester, anh nhanh chóng chuyền cho Luke Shaw - đang có rất nhiều không gian ở cánh đối diện vì Albrighton đang dạt vào giữa - trước khi Tielemans kịp gây áp lực. Nếu Tielemans có thể gây áp lực lên Martial khi anh nhận bóng, Leicester có thể giành lại lợi thế vì tiền đạo người Pháp bị bao vây ở mọi phía, tuy nhiên tốc độ và vị trí đứng ở điểm mù giúp Martial thoát khỏi áp lực của Tielemans.
Điều này khiến Justin phải đối mặt tình huống 1 vs 2 khi Man United có thể vượt qua tuyến cuối cùng của Leicester với những pha phối hợp của Shaw và Rashford. Ví dụ trên cho thấy cách đối thủ có thể khai thác Leicester bằng cách hoán đổi vị trí vào điểm mù của Tielemans/Ndidi để pha vỡ lớp pressing. Tuy nhiên, đây chỉ là một tình huống thiếu hiệu quả từ chiến thuật của Leicester trong một hệ thống pressing vẫn phần lớn tạo ra hiệu quả.
|
Sau khi Bailly chuyền cho Lindelof, Barnes cố gắng gây áp lực để buộc Man United rơi vào bẫy pressing. Tuy nhiên Fernandes và Martial hoán đổi vị trí và giúp thoát khỏi lớp pressing của Leicester |
|
Tốc độ hoán đổi và vị trí ở điểm mù giúp Martial nhận bóng giữa "chiếc hộp trung lộ" của Leicester và sau đó chuyền nhanh cho Shaw - người phối hợp với Rashford để vượt qua Justin |
KẾT LUẬN
Rõ ràng Brendan Rodgers đã phát triển nên một đội bóng Leicester chơi thông minh, có thể thích nghi với các chiến thuật mà vẫn duy trì hiệu quả trước đối thủ. Dù có kiểm soát bóng hay không, Leicester đều có những chiến lược để thay đổi nhanh chóng và khai thác những điểm yếu của đối phương ở cánh, từ lùi sâu cho đến pressing tầm cao. Trong lúc đó họ vẫn có thể duy trì các mảng miếng phối hợp tấn côn để tối đa hóa sức mạnh. Tuy nhiên, thành công của chiến lược này nằm ở chỗ Leicester có những cầu thủ quan trọng phù hợp để tối đa hóa với hệ thống. Tất cả những điều này kết hợp lại giúp “Bầy cáo” thi đấu tốt và thoải mái trong top 4, hoàn toàn có thể tin vào một suất dự Champions League mùa giải tới.
Dịch từ bài viết của tác giả Adam Cooper, Abel Meszaros trên Spielverlagerung.