Khi mùa giải chưa hoãn vì đại dịch Covid-19, Kaiserslautern đang bấp bênh ở vị trí 14 trên bảng xếp hạng và có khả năng còn xuống thấp hơn nữa. Nhưng dù sao thì lịch sử luôn giành cho họ sự trang trọng sau kỳ tích năm 1998.
Kaiserslautern đang lặn ngụp ở hạng đấu thứ ba của nước Đức, nhưng 22 năm trước, họ trở thành đội duy nhất vô địch Bundesliga ngay khi mới thăng hạng.
Nếu Otto Rehhagel định dùng chiến thắng đầu tiên đánh dấu mùa giải mới thăng hạng, ông hẳn đã nhăn mặt hết mức khi lịch thi đấu đưa ông đến khách trên sân nhà đương kim vô địch Bundesliga Bayern Munich. Đại diện hùng mạnh của xứ Bavaria, dưới sự dẫn dắt của HLV Giovanni Trapattoni, vừa giành được thêm DFB Pokal và cúp liên đoàn Đức (nay đã không còn) với đội ngũ đầy ắp tài năng như Lothar Matthaeus, Giovane Elber, Oliver Kahn, Bixente Lizarazu và Mario Basler. Rehhagel không xa lạ với họ. Chính ông đã bị Bayern sa thải chỉ 4 ngày trước khi lượt đi chung kết UEFA Cup 1996 diễn ra. Quyết định tàn nhẫn của BLĐ Die Roten đã dẫn ông đến công việc ở một đội bóng áo đỏ khác ở phương nam. Kaiserslautern mang biệt danh là Die Roten Teufel, tức là những con quỷ đỏ.
Màn phục hận của ông bắt đầu ngay từ trận mở màn. Hậu vệ Đan Mạch Michael Schjonberg ghi bàn thắng duy nhất ở phút 80, mang lại 3 điểm gây sốc giải đấu. Chiến thắng bắn phát pháo hiệu cảnh báo phá vỡ cuộc cạnh tranh song mã giữa Bayern Munich với Borussia Dortmund đã trong suốt một thập niên.
Phải nói thêm rằng lúc này Die Borussen chính là nhà đương kim vô địch Champions League. Có điều họ để mất cả bộ đôi tiền vệ Paul Lambert và Paulo Sousa, trong khi chân sút chủ lực Karl-Heinz Riedle đến thử sức ở Liverpool.
Trong khi những đối thủ cạnh tranh có ngôi sao thì Kaiserslautern chỉ là đội bóng được tổ chức chặt chẽ và ‘đã quen với những chiến thắng’.
“Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng những trận thắng liên tiếp ở giải hạng hai trước đó đã giúp chúng tôi thấm nhuần tinh thần chiến thắng” – Schjonberg giải thích.
|
Những cựu binh như Andreas Brehme hoàn toàn quy phục Rehhagel |
Giàu truyền thống và tinh thần lên cao
Kaiserslautern đến từ một thị tứ không tới 100 nghìn dân sinh sống ở miền tây nam nước Đức. Sân vận động Fritz Walter có sức chứa 36,709 chỗ, được đặt tên thủ quân tuyển Đức làm nên kỳ tích lớn nhất lịch sử World Cup năm 1954. Tinh thần chiến thắng mà Schjonberg đề cập trở thành khối thép khó bị khuất phục sau khi họ giành được vị trí đầu bảng sau vòng đấu thứ tư. Kể từ đó, thầy trò Rehhagel không bao giờ dừng lại.
Xuyên suốt sự nghiệp, HLV kỳ cựu người Đức được nhớ nhiều nhất bởi chức vô địch Euro 2004 cùng đội tuyển Hy Lạp. Đội bóng ngoài lề với tỉ lệ đặt cược vô địch chỉ 150-1 đã chạm đến chiếc cúp danh giá của lục địa bằng phong cách phòng ngự kín kẽ, cực kỳ lợi hại trong những pha không chiến đến từ tình huống cố định. Nhưng ở Kaiserslautern, câu chuyện rất khác.
Họ có chủ công Olaf Marschall ghi 21 bàn, vô cùng dũng mãnh, thiện chiến, là hình mẫu tiền đạo mục tiêu (target man) chuẩn mực thời đó, Rehhagel cũng điều chỉnh để có chỗ phát huy những tài năng như Ciriaco Sforza. Anh đã quay lại Kaiserstautern sau khi cuộc phiêu lưu đến hai miền đất hứa Bayern và Inter Milan đều đổi lấy thất bại. Nhạc trưởng người Thụy Sĩ chính là cầu thủ quan trọng nhất trong xuyên suốt mùa giải.
|
Sforza là cầu thủ quan trọng nhất trong kỳ tích của Kaiserslautern |
Các cầu thủ đều có sự tự do
“Otto luôn cho chúng tôi sự tự do” – Marschall nhớ lại trên trang chủ UEFA năm 2015. “Ông ấy ghi ra đội hình xuất phát còn chúng tôi làm phần việc còn lại. Mọi người đều giúp đỡ nhau, kể cả tiền đạo cũng phải hỗ trợ phòng ngự, đuổi theo giành lại bóng nếu mất quyền kiểm soát. Nó hơi giống với Dortmund khi họ giành hai chức vô địch Bundesliga gần đây nhất. Otto có ý thức không tưởng trong việc xây dựng đội bóng”.
Cũng như Sforza, Rehhagel cũng tìm sự sáng tạo nơi chân chạy cánh Ratinho đến từ Brazil, bổ sung vào đó sự cần mẫn của hai tiền vệ ‘công nhân’, cũng như đôi khi trông chờ sự đột biến của tân binh Michael Ballack, người mới đến từ Chemnitz.
Giống như Hy Lạp, tình huống cố định đóng vai trò hết sức quan trọng - Sforza treo bóng còn Marschall đánh đầu - nhưng điều chỉnh chiến thuật mang đến sự vượt trội nằm ở việc bố trí Miroslav Kadlec giữ vai một máy quét cơ động và bền bỉ. Các cầu thủ còn lại được tự do đến mức sẵn sàng dâng lên phía trên gia tăng quân số hàng tiền vệ.
Không giống như Hy Lạp, đây là đội bóng không bị giới hạn quá khắt khe. Rehhagel tự nhận mình là một “kẻ độc tài dân chủ” với khẩu hiệu “những quyết định tôi đưa ra luôn đúng”, điều này dẫn đến một nhóm những cầu thủ khác thường, bao gồm Andreas Brehme, người ghi bàn thắng trong trận chung kết World Cup 1990 mang về thắng lợi cho tuyển Đức, hoàn toàn tuân phục.
Cú đúp chiến thắng trước Bayern
“Trong kỳ nghỉ, điện thoại của tôi cứ reo miết. Khi Otto muốn gì đó, ông ta không bao giờ để cho bạn yên” – Sforza nói về ông thầy cũ.
Dù bí quyết chiến thắng là gì, đội bóng của Rehhagel còn được giúp sức bởi định mệnh. Sau khi để thua trận mở màn, Bayern mở ra chuỗi trận bất bại kéo dài 15 trận, duy trì áp lực đáng kể lên Quỷ Đỏ trước khi chạm trán Bayer Leverkusen với niềm cảm hứng Ulf Kirsten vào cuối tháng mười hai. Họ bị đánh bại với tỉ số 2-4.
Một tuần sau đó, bàn phản lưới nhà của Didi Hamann đá cộng với pha dứt điểm của Marian Hristov giúp Kaiserslaurtern hoàn tất cú đúp chiến thắng trước Bayern trong cùng mùa giải, trước sự chứng kiến của sân vận động kín chỗ nằm trên đồi Betzenberg. Lúc này, họ đã dẫn trước nhà đương kim vô địch tới 7 điểm.
Tuy nhiên, công chúng vẫn hoài nghi. Từ thời điểm này, áp lực của sự kỳ vọng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến họ. Điều không ai ngờ Bayern lại là đội sụp đổ trước. Họ để thua 3 trận trong thế dẫn trước từ tháng hai đến tháng ba, giúp Kaiserslautern vô địch sớm một vòng đấu sau khi đánh bại Wolfsburg tới 4-0. Buổi tiệc ăn mừng đã kéo dài bất tận như khoảng cách của cả hai trên bảng xếp hạng.
|
Ballack ăn mừng danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp |
Đỉnh cao rồi lao dốc
Mặc dù vẫn giành vị trí thứ năm ở mùa sau, vào đến tứ kết Champions League 1998-1999 (bị Bayern Munich loại với tỉ số chung cuộc 6-0), Kaiserslautern quay lại với cái máng lợn quen thuộc.
Brehme và Kadlec rời đội ngay sau khi giành danh hiệu vô địch. Sforza bỗng nhiên mâu thuẫn với Rehhagel còn Ballack bất ngờ bị bán sang Bayer Leverkusen trong mùa giải Bayern Munich giành lại ngôi vương.
Họ vào đến bán kết UEFA Cup 2001 nhưng Quỷ Đỏ không bao giờ có thể đạt đến tầm cao như cũ. Tài chính yếu kém suýt chút nữa xóa sổ đội bóng trước khi họ lên lên xuống xuống giữa hai hạng đấu trong quãng thời gian dài rồi rớt xuống 3.Liga hồi 2018.
Khi mùa giải chưa hoãn vì đại dịch Covid-19, họ đang bấp bênh ở vị trí 14 trên bảng xếp hạng và có khả năng còn xuống thấp hơn nữa. Nhưng dù sao thì lịch sử luôn giành cho họ sự trang trọng sau kỳ tích năm 1998.
Theo Matt Pearson | DW Sport