Giành được danh hiệu Community Shield không chỉ là cú huých về mặt tinh thần cho Arsenal trước khi bước vào mùa giải mới, mà còn là lời khẳng định về sự trưởng thành của họ trước chính Man City – bởi dưới thời Mikel Arteta, Pháo Thủ trước đây chỉ đúng 1 lần đánh bại được đoàn quân của Pep Guardiola.
Bài học từ trận thua 1-4
Trước Community Shield, lần chạm trán gần nhất giữa Arsenal và Man City là vào cuối tháng 4 ở Premier League. Bấy giờ, thầy trò Arteta thua đậm 1-4.
Hôm ấy, City đá với cấu trúc triển khai bóng 4-2, gồm 4 hậu vệ và 2 tiền vệ trung tâm Rodri – Gundogan. Mikel Arteta chỉ đạo các học trò tổ chức hệ thống không bóng là 4-4-2, gây áp lực quyết liệt lên khâu triển khai bóng từ vị trí thủ môn của City: Jesus và Odegaard là những người gây áp lực ở tuyến đầu, Xhaka gần như được giao nhiệm vụ theo Rodri, còn Partey có xu hướng dâng lên kèm Gundogan.
Nói cách khác, Kevin De Bruyne và Haaland sẵn sàng khai thác khoảng trống giữa hai tuyến tiền vệ và hậu vệ của Arsenal, tức khoảng trống sau lưng Partey một khi tiền vệ này quyết định dâng lên kèm Gundogan.
(Hình ảnh thường xuyên diễn ra ở trận thua 1-4 của Arsenal hồi tháng 4 trước City: Thomas Partey dâng lên tham gia gây áp lực tầm cao) |
Sau trận hôm ấy, KDB có nói với NBC Sports như sau: “Cái cách mà Arsenal chơi bóng, họ pressing các đối thủ có thể nói là ở đẳng cấp hàng đầu, thành thật là vậy. Bạn gần như không thể triển khai bóng tuần tự từ tuyến dưới được, những tình huống goal kick bấy giờ cứ như trở thành những pha bóng chết. Do đó, chúng tôi biết rằng mình cần phải chơi bóng dài, chúng tôi điều chỉnh vài thứ trên sân tập, tìm cách tấn công theo chiều sâu với những pha chạy chỗ của Erling. Và trong hiệp một, chúng tôi đã có được một vài cơ hội từ những pha bóng kiểu như thế.”
“Bình thường chúng tôi chơi với hai số 8. Nhưng tôi nghĩ Pep muốn có thêm nhiều sự kiểm soát trước cách pressing của Arsenal, do đó hôm nay chúng tôi sử dụng hai số 6 là Gundogan cùng Rodri. Tôi sẽ lựa chọn thời điểm tùy thuộc vào việc Xhaka hay Partey dâng lên gây áp lực. Nếu Partey dâng lên gây áp lực, tôi sẽ tìm cách lẻn ra sau lưng và ngược lại, bấy giờ sẽ thật khó cho hai trung vệ của họ là Holding và Gabriel. Những gì tôi cần làm là kết nối với Erling và có thể nói trong hiệp một, tôi đã có được kha khá sự tự do.”
Có thể kết luận rằng hệ thống không bóng pressing tầm cao của Arsenal tạo lập trước City ngày đó là phiêu lưu và phải trả giá.
Sửa sai
Hệ thống khi không bóng của Arsenal ở trận Community Shield là sự thay đổi so với chính cách tiếp cận của họ trong quá khứ. Hiệp một trước City là một hiệp đấu thật sự hiệu quả của Pháo Thủ với kế hoạch mà họ đã vạch ra.
Một lần nữa, City vẫn đá với cấu trúc triển khai bóng 4-2 gồm y nguyên bộ bộ khung tứ vệ như trận đấu hồi tháng 4, chỉ khác là cặp tiền vệ trung tâm giờ đây gồm Rodri và tân binh Kovacic, bên cạnh đó là Ortega thay Ederson trước khung gỗ.
Về phần mình, Arteta đã từ bỏ sự phiêu lưu, ông thiết lập một hệ thống không bóng gây áp lực từ thấp – trung chặt chẽ và thận trọng hơn. Không còn hình ảnh Partey thường xuyên dâng lên dập hoặc kèm một trong các tiền vệ trung tâm của đối thủ nữa. Thay vì vậy, anh được yêu cầu giữ vị trí thấp, quét trước mặt hàng thủ/ bao quát không gian giữa hai tuyến, cũng như sẵn sàng theo kèm Julian Alvarez. Hai tiền đạo cánh là Saka và Martinelli được yêu cầu chơi hơi bó vào trong để tạo ra một cấu trúc hẹp theo chiều ngang, hòng khóa chặt trung lộ. Hệ thống không bóng của Arsenal giống với 4-1-3-2 hoặc 4-1-4-1 hơn là 4-4-2 ngày trước.
(Hệ thống không bóng của Arsenal trước City ở Community Shield trong hiệp một) |
Nếu Ortega của City có bóng bất kể ở vùng cấm hay bên ngoài vùng cấm, Kai Havertz sẽ là người dâng lên cao nhất gây áp lực, với đường chạy vòng cung bo cạnh mở ra phía Stones. Giải pháp chuyền bóng của Ortega bị giới hạn lại, gần như phải chuyền sang cho Dias. Bấy giờ, Declan Rice sẽ kèm lấy Rodri, Odegaard kèm Kovacic. Partey không dâng lên.
Nếu Stones có bóng thì vẫn Havertz di chuyển bo cạnh hướng ra biên để gây áp lực, phía dưới anh Rice lo Rodri, Odegaard lo Kovacic.
Tình huống ở phút thứ 20 mang đến một ví dụ tiêu biểu khi Kai Havertz tiến lên gây áp lực đối với Ortega đã chỉ tay ra hiệu về phía sau cho Declan Rice để mắt tới Rodri.
Khi Ortega chuyền bóng cho Dias, đến lượt Odegaard sẽ bỏ Kovacic để di chuyển vòng cung bo cánh hướng ra phía Akanji để gây áp lực lên trung vệ người Bồ Đào Nha. Với một cầu thủ thuận chân phải đá trung vệ lệch trái, Dias không có được sự thoải mái và lợi thế khi xoay chuyển cơ thể để nhận bóng, góc chuyền và thực hiện đường chuyền. Lúc này, Rice sẽ di chuyển để kèm lấy Kovacic; còn Havertz có nhiệm vụ bắt lấy Rodri. Nhưng vì xu hướng di chuyển khá gần nhau của Rodri và Kovacic, trong khi Rice là cầu thủ có khả năng để bao quát diện rộng, anh có thể được xem là lo liệu luôn cả Rodri và Kovacic.
Tình huống ở phút thứ 13 tiếp tục mang đến một chỉ dấu nổi bật trong bố trí kèm người gây áp lực của Arsenal lên City. Khi Ortega luân chuyển bóng sang Ruben Dias, khối pressing nhóm đầu của Arsenal liền dịch chuyển theo. Lúc này, Odegaard bắt đầu dâng lên, Rice cũng di chuyển dịch sang và ra hiệu Havertz chú ý đến Rodri.
Từ phạm vi 1/3 giữa sân đổ về 1/3 cuối sân, Arsenal thiết lập một cấu trúc không bóng 4-4-2 với cự ly hẹp giữa các tuyến. Bấy giờ, Odegaard và Havertz là những người chơi cao nhất, Rice và Partey là hai tiền vệ trung tâm, trong khi Saka cùng Martinelli ở biên.
Trong hệ thống kèm người của Arsenal, một chi tiết quan trọng là việc Declan Rice được giao nhiệm vụ chăm sóc kỹ lưỡng Rodri của City. Gần như thường trực, cứ hễ Rodri trở thành mắt xích nhận bóng từ các đồng đội trong tư thế quay lưng về phía khung thành đối phương, Rice liền áp sát ngay phía sau.
Với trạng thái thường xuyên bị giới hạn không gian xoay trở để nhận và chuyền bóng như vậy, Rodri buộc phải thường xuyên di chuyển lùi về đứng giữa hai trung vệ. Lúc này, tiền vệ người Tây Ban Nha gần như trở thành cầu thủ thấp nhất triển khai bóng trong cấu trúc 4-2 (không xét đến thủ thành Ortega) và có thể hướng tầm nhìn về phía trước.
Từ đó mà một nguyên tắc được đặt ra với Rice: Không theo kèm Rodri. Nôm na thì nếu Rodri giật lùi về đứng thấp để nhận bóng, Rice sẽ lập tức thoái lui để giữ vị trí nơi tuyến tiền vệ Arsenal.
Một trong những pha bóng đáng chú ý của hiệp một bên phía City là cú sút xa từ giữa sân của Rodri về phía khung thành Ramsdale. Đó là hệ quả từ việc Rodri lùi về thấp nhận bóng, Rice lúc này duy trì vị trí đứng nơi tuyến tiền vệ trong cấu trúc 4-4-2 ở phạm vi giữa sân thay vì lao lên gây áp lực. Nhờ vậy, cầu thủ người Tây Ban Nha có thể dẫn bóng vài nhịp về phía trước và có tầm nhìn, khoảng trống tung ra cú đá.
Vậy có khi nào Partey dâng lên tham gia gây áp lực không? Câu trả lời là có, nhưng có nguyên tắc được đặt ra. |
Đó là khi City triển khai bóng bất thành qua phạm vi 1/3 giữa sân, họ buộc phải luân chuyển quả bóng ngược trở về, reset lại khâu này. Đấy chính là thời điểm Partey di chuyển đồng bộ theo các đồng đội dâng lên. Một sự co giãn có chủ đích để sẵn sàng giành lại quyền kiểm soát bóng nếu có thể và lập tức chuyển đổi trạng thái sang tấn công.
Tình huống từ phút 27 đến phút 28 là một minh chứng rõ ràng cho thấy điều đó, khi City buộc phải luân chuyển bóng ngược trở về từ Walker, Stones, Dias rồi quay trở lại Ortega sau khi không thể phát triển bóng lên 1/3 cuối sân. Thế nên, ta mới bắt gặp Partey trong khung hình.
Nhưng vì City đã reset lại khâu triển khai bóng, còn Arsenal không thể được đà gây áp lực giành lại bóng thành công, họ cũng cần reset lại cấu trúc không bóng của mình. Partey nói riêng và Arsenal nói chung ngay lúc này rơi vào tình thế lưỡng lự. Những cái chỉ tay của Odegaard, Rice rồi cả Partey là cách họ trao đổi thông tin với nhau: Ai theo kèm Rodri?
Vì Dias là người có bóng ngay trước khi chuyền về cho Ortega nên đương nhiên Odegaard bấy giờ dâng lên theo. Havertz ở vị trí sẵn sàng cho một pha dâng lên gây áp lực quen thuộc đối với Ortega. Odegaard có vẻ muốn các đồng đội của mình phải theo kèm Rodri. Partey chưa quay về phần sân nhà nên có vẻ phân bua rằng trọng trách kèm Rodri không phải của mình. Rice thì ra hiệu có vẻ là “Cứ từ từ! Anh lo tất!”
Bóng vẫn trong chân Ortega đến khoảng 10 giây. Trong 10 giây đó, Partey đã có lúc lưỡng lự giữa việc dâng lên kèm Rodri, anh đi được một quãng trước khi trao đổi lại với Rice và cuối cùng lui về hoàn toàn. Rice lúc này chính là người thật sự lo liệu Rodri.
Thời điểm Rice dâng lên kèm Rodri, anh kịp thời ra hiệu cho Odegaard – cũng với một cái chỉ tay – về chuyện theo kèm Kovacic. Kovacic mất vài nhịp để thật sự nhận ra anh có thể giật lùi lại sau lưng Odegaard vài bước và làm người tự do. Odegaard nhận ra và tiếp tục chỉ tay ra hiệu cần phải kèm lấy Kovacic, vốn là trọng trách của mình. Cuối cùng, không có đường chuyền xuyên tuyến nào từ Ortega dành cho Kovacic cả, thay vì vậy là một pha chuyền ngang cho Dias.
Nhìn chung, hệ thống không bóng của thầy trò Arteta đã vận hành hiệu quả, đạt được mục tiêu phong tỏa chặt trung lộ, buộc City phải lên bóng qua biên mà cụ thể là biên trái, nơi vốn dĩ những Ruben Dias và Manuel Akanji đều là những hậu vệ thuận chân phải – tức không thể có được góc và hướng phát triển bóng thoải mái.
Arsenal có thể có thời điểm chưa nhịp nhàng như ở phút 27-28 đã chỉ ra, nhưng bản thân chính City cũng không khai thác được. Tính tích tắc trong bóng đá là vậy, không phải lúc nào cũng như một phương trình hóa học ở điều kiện tiêu chuẩn.
Và còn bởi, việc cặp Rodri và Kovacic thường xuyên có xu hướng chơi quá gần nhau cho phép Arsenal đạt được mục tiêu đề ra, bởi Rice không phải di chuyển rộng để lo liệu cả hai cầu thủ đối phương này trong một số thời điểm.
Điểm nhấn tấn công của Arsenal
Không chỉ hiệu quả ở mặt trận phòng ngự, Arsenal cũng đạt được những điểm nhấn quan trọng ở mặt trận tấn công trong hiệp một. 3 trong số 4 pha dứt điểm mà Arsenal có được ở hiệp đấu này xuất phát từ mảng miếng hoán đổi vị trí – tức rotation – điển hình mà chúng ta có thể bắt gặp trong bóng đá, với 2 cơ hội ngay sát vùng 5m50 trực diện về phía khung thành Ortega thuộc về Kai Havertz, một tình huống đó dẫn tới 1 pha dứt điểm bồi của Martinelli.
Hoán đổi vị trí có thể hiểu đơn giản là các pha di chuyển đồng bộ có sự tham gia của ít nhất 2 cầu thủ trong hệ thống của đội đang sở hữu bóng. Khi đó, các cầu thủ luân phiên di chuyển vào khoảng trống mà vốn dĩ được chiếm giữ bởi một cầu thủ ở vị trí khác. Mục đích là để mở ra góc/hướng nhận bóng ở vùng không gian đó cho đường chuyền của đồng đội, hoặc để lôi kéo/thao túng cấu trúc phòng ngự của đối phương.
Một trong những miếng hoán đổi vị trí quen thuộc và phổ biến nhất trong bóng đá là ở nhóm cầu thủ ở hành lang biên và hành lang trong mỗi cánh, thường là với nhóm 3 cầu thủ: tiền vệ số 8, hậu vệ cánh và tiền đạo cánh. Với những đội bóng như Arsenal, dễ dàng bắt gặp các miếng hoán đổi vị trí kiểu này.
Cơ hội đầu tiên họ tạo ra được là ở phút 25. Arsenal không triển khai bóng bằng cấu trúc có vai trò của hậu vệ cánh bỏ biên để bó vào trong, thay vào đó là cặp tiền vệ Partey - Rice. Tân binh chuyển đến từ West Ham lùi về nhận bóng giữa cặp trung vệ, cho phép hai hậu vệ cánh là Ben White cùng Jurrien Timber được đẩy lên cao hơn: White có xu hướng bám biên rộng, Timber có xu hướng đâm nách hàng thủ đối phương mà dù đá biên trái hay biên phải trong giai đoạn tiền mùa giải anh cũng đều cho thấy.
Pha tấn công tạo ra nơi cánh phải, với nhóm 3 người là White, Odegaard và Saka. Đương nhiên, không thể không có người châm ngòi đường chuyền là trung vệ lệch phải Saliba.
Hình dung thì ở hệ thống cơ bản của Arsenal, White bám biên ở cánh phải, Odegaard sẽ đã tiền vệ số 8 lệch phải ở hành lang trong phải, Saka là tiền đạo cánh ở biên phải. Tam giác cơ bản là vậy.
Nhưng trong tình huống này, bộ 3 đó hoán đổi vị trí cho nhau: White ở biên dâng lên cao vào vị trí của Saka, Saka bó vào trong để đánh nách hàng thủ đối phương, Odegaard giật lùi xuống.
Bố trí kèm người của City là: Kovacic theo Odegaard, Grealish theo White, Akanji theo Saka.
Khi bộ 3 của Arsenal hoán đổi vị trí như đã nêu, Akanji dịch vào trong một chút theo Saka, mở ra đường chạy ở biên cho White - người lẻn ra sau lưng Grealish. Lúc này, cầu thủ có bóng Saliba có được góc chuyền chéo ra biên vào đường chạy của White.
Từ pha nhận chuyền thoát xuống đó của White mà mở ra cơ hội dứt điểm sau đó cho Havertz, tiếp nối là cú dứt điểm bồi của Martinelli.
Cơ hội dứt điểm chất lượng còn lại của Arsenal được tạo ra ở phút 40, sau một chuỗi duy trì quyền kiểm soát bóng. Ở thời điểm cuối phút 39, White vẫn duy trì vị trí thấp, Odegaard ở nách, còn Saka ở biên. Một tam giác của hệ thống cơ bản (ảnh số 3).
Sau một chuỗi các pha phối hợp, bộ 3 đó từ từ hoán đổi vị trí cho nhau. Ngay trước thời điểm đường chuyền châm ngòi được thực hiện: White ở không gian của Saka, Saka ở không gian của Odegaard, còn Odegaard ở không gian của White (ảnh số 4). Tam giác mới được tạo dựng giống ở tình huống Arsenal có cơ hội vào phút 25.
Từ đường chuyền của Odegaard, Saka thoát xuống nhận bóng trả ngược vào trong dành cho Havertz dứt điểm.
Sự thay đổi của City
Nếu trận Community Shield chỉ có những đường nét chiến thuật gói gọn trong hiệp một như vậy thì e là chưa đủ đô và có phần hạ thấp tư duy của Pep Guardiola. Thực tế, ngay trong hiệp hai, City đã có những sự điều chỉnh từ trước khi những phương án thay người được Pep thực hiện.
“Đối thủ bắt ta gặp khó ở trung lộ thì lời giải nằm ở chính trung lộ”, đó rất có thể là tư tưởng của Pep. Bởi giải pháp đầu tiên của Pep chính là điều chỉnh lại vị trí đứng của cặp tiền vệ trung tâm Rodri – Kovacic. Hệ thống không bóng của Arsenal chú trọng đến việc kèm người một-một, mà chủ yếu nhất nằm ở vai trò của Rice lên Rodri. Do đó, sang hiệp hai, tiền vệ người Tây Ban Nha bắt đầu thực hiện nhiều pha di chuyển không bóng tách khỏi Kovacic hơn, thay vì chơi gần nhau như trong hiệp một, như là một cách để thao túng cấu trúc phòng ngự của đối thủ.
Đồng thời, ở trung lộ và hành lang trong, Pep yêu cầu những mắt xích như Bernardo Silva hay Julian Alvarez thường xuyên giật lùi về để hỗ trợ việc kết nối bóng – điều mà trong hiệp một ít khi diễn ra. Nói cách khác, Silva trong hiệp hai không còn chơi như một tiền đạo cánh phải nữa, anh bắt đầu có mặt ở trung lộ.
Đáp lại, Arteta cũng không chịu bị động giữ nguyên cấu trúc không bóng gây áp lực và kèm người của mình. Như đã nói, hai tiền đạo cánh Saka và Martinelli của Arsenal trong hiệp một được chỉ đạo chơi hơi bó vào trong để giữ cự ly hẹp cho cấu trúc phòng ngự theo chiều ngang. Vị trí đứng của cặp tiền đạo cánh này luôn là ở phía sau hai người pressing cao nhất là Havertz và Odegaard. Nhưng có một giai đoạn từ phút 60 trong hiệp hai, Martinelli được chỉ đạo đứng cao hơn hẳn, để hợp cùng Havertz và Odegaard trở thành nhóm gây áp lực ở tuyến đầu của Arsenal.
Có thể hình dung rằng ở hiệp một, nhóm 3 người gồm Havertz, Rice và Odegaard di chuyển theo hình quả lắc dựa trên người có bóng của City là Stones, Ortega hay Dias. Giữa Havertz, Rice và Odegaard còn có sự phân vai theo kèm người lên cặp tiền vệ trung tâm của City. Song, khi Pep yêu cầu thêm những mắt xích khác lui về hỗ trợ việc triển khai bóng ở trung lộ, nhóm 3 người của Arsenal không thể cáng đáng nổi.
Arteta quyết định không để Martinelli theo kèm hậu vệ cùng cánh của đối thủ, cho cầu thủ này đứng cao hơn để gây áp lực lên vị trí trung vệ và thủ môn đối thủ như một cách cân bằng lại phần nào quân số kèm người cho trung lộ.
Song, Pep một lần nữa có nước cờ cao tay, hoặc cũng có thể là sự thông minh của một cầu thủ ông có trong tay, chính là Bernardo Silva. Từ sau khi Kovacic được thay ra, Silva lùi về hoàn toàn để chơi cạnh Rodri trong cặp tiền vệ trung tâm. Cái hay của Silva nằm ở chỗ anh tách hẳn khỏi Rodri thay vì chơi gần người đồng đội. Cầu thủ người Bồ di chuyển chéo sang cặp trung vệ của City, dù vai trò vẫn là một tiền vệ trung tâm nhưng không gian nhận bóng lúc này là ở vị trí của một trung vệ lệch trái.
Hành động di chuyển đó của Silva khiến cấu trúc kèm người một-một của Arsenal bị phá hỏng. Odegaard, người vốn dĩ có trọng trách dâng lên gây áp lực với Dias và che chắn hướng chuyền đến Kovacic trong hiệp một, thì giờ đây không thể làm điều tương tự. Silva dạt sang vị trí của trung vệ lệch trái đặt cầu thủ người Na Uy vào thế 1v2, không biết nên di chuyển gây áp lực lên ai. Nôm na thì vị trí của Silva mở ra góc luân chuyển bóng thuận lợi hơn nhiều cho Dias, lẫn cho những đường kết nối bóng về phía trước, cụ thể là những đường chuyền chéo thay vì phương thẳng đứng.
Tình huống phút thứ 66 là một ví dụ, khi Silva từ vị trí tiền vệ trung tâm cạnh Rodri, di chuyển chéo sang không gian hoạt động của trung vệ lệch trái.
Sự thay đổi về vị trí đứng khi nhận bóng của Silva, song hành cùng hành động di chuyển giật lùi về của các mắt xích khác ở trung lộ, giúp mở ra những góc và hướng lên bóng đa dạng hơn cho City.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả. Để nói về những điều chỉnh của City trong hiệp hai, chúng ta còn phải nói về việc Pep đã thay thế hoàn toàn vai trò kéo giãn biên của những tiền đạo cánh bằng các hậu vệ cánh. Silva – như đã nói – trước tiên được kéo vào đá trung lộ ngay đầu hiệp hai. Sau đó, Grealish cũng được thay thế bằng Phil Foden, một cầu thủ giỏi xoay trở và nhận bóng “half-turn” ở hành lang trong hoặc trung lộ, thay vì chỉ chăm chăm bám biên. Cole Palmer dù được đưa vào sân chơi như một tiền đạo cánh phải, song gương mặt trẻ này di chuyển linh hoạt vào hành lang trong và trung lộ.
Tất cả những phương án nhân sự ấy dẫn tới một cấu trúc có bóng tấn công mới của City so với hiệp một, khi Kyle Walker và Manuel Akanji – những hậu vệ cánh – được đẩy lên cao hơn trong giai đoạn triển khai bóng từ tuyến dưới, và ở phạm vi 1/3 giữa sân đổ lên, họ chính là những nhân tố bám biên rộng và cao như các tiền đạo cánh. Bấy giờ, những Foden, Palmer rồi KDB phân bổ linh hoạt ở hành lang trong (tức nách trung lộ) và trung lộ, với ý tưởng là khai thác vào chính những khoảng trống bên hông Partey – người bao quát vùng không gian giữa hai tuyến – và sau lưng nhóm pressing tuyến đầu của Arsenal.
Khi Palmer hay Foden/KDB đứng ở hành lang trong, họ đồng thời tạo ra thế tiến thoái lưỡng nan cho hai tiền đạo cánh Saka và Martinelli của Arsenal. Vốn dĩ, hai cầu thủ này có vai trò theo kèm lên cặp hậu vệ cánh của City, nhưng từ sự hiện diện thêm của Palmer hay Foden/KDB, họ sẽ lưỡng lự trong việc kèm người.
Tình huống City ghi bàn mở tỷ số của trận đấu chính là nét chấm phá của “combo điều chỉnh” từ Pep Guardiola. |
Silva di chuyển chéo ra vị trí trung vệ lệch trái nhận bóng và luân chuyển bóng cùng Dias, Odegaard rơi vào thế 1v2. Cole Palmer từ hành lang trong phải giật chéo về trung lộ để sẵn sàng mở ra một điểm kết nối bóng dành cho Dias sau đó. Bấy giờ, Trossard – người được tung vào sân thay thế Martinelli bó hẳn vào trong chia lửa kèm người với Rice. Thay vì bắt lấy Rodri như thường lệ, Rice lúc này dành sự chú ý cho Palmer, Trossard kèm Rodri.
Rodri không thể chuyền cho Palmer nên phối hợp cùng Rodri và Ortega trong vài nhịp. Lúc này, đến lượt Phil Foden giật lùi về mở ra điểm chuyền bóng dành cho Dias. Hành động dâng lên theo kèm của Partey là tất yếu và có thể hiểu được, bởi Foden chính là trọng trách kèm người của anh. Những cú half-turn của Foden vốn luôn là một đặc sản của cầu thủ này và trong pha bóng đó, anh đã phát huy nó triệt để để loại bỏ Partey.
Những gì sau đó là một thế 6v5 mà City tạo ra trước Arsenal. Nhìn ở khung hình toàn cảnh trong góc máy chiếu chậm sau đó, có thể nhận thấy Rice đã bị Palmer kéo trôi dạt sang hành lang trong phải, còn Havertz và Saka gần như bị loại khỏi vòng chiến khi không có vai trò nào trong cả tình huống.
Một trận Community Shield khởi động cho mùa giải mới, nhưng vẫn mang đến những điểm nhấn thú vị, bởi đơn giản trên băng ghế chỉ đạo của Arsenal và City là những HLV với tư duy chiến thuật cực cao. Mikel Arteta cho thấy sự trưởng thành và giúp Arsenal có một hiệp một hiệu quả. Pep Guardiola đáp trả bằng những toan tính linh hoạt trong hiệp hai.