Thứ Tư, 25/12/2024Mới nhất
Zalo

Andrea Pirlo: Lãng tử, nhà thơ, 'sát thủ' và cả nỗi u hoài

Thứ Hai 17/03/2014 19:51(GMT+7)

Theo dõi Bongda24h trên Google News

Người đàn ông thầm lặng đến từ Brescia này được gọi là “Thiên tài người Italy”. Sau World Cup 2014, anh sẽ giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế. Và Italy nhận ra gần 10 năm qua Azzurri đã sống bằng nhịp đập trái tim anh, và ngày anh rời đi, điều còn lại chỉ là sự trống trải.

Pirlo là cả một triết lý bóng đá

Viết về vị trí của Pirlo đôi khi rất kỳ lạ, lắm khi viết một vài trang vẫn thiếu, mà viết thêm một chữ lại thừa. Sẽ là quá nhiều nếu ta vẫn nói về phát kiến kéo một “trequarista” như anh lùi sâu xuống 15m. Và từ đó bộ óc thiên tài này điều phối tất cả cửa ngõ chiến thuật của cả một đội bóng. Nhưng sẽ là thiếu nếu ta không nhắc về sự việc này để nói về Pirlo. Bởi nếu ngày đó không đến, sẽ chẳng có Pirlo với những chiến quả chói lọi của ngày hôm nay, chỉ còn một “Baggio mới” buồn bã theo năm tháng dài ở Nerazzurri. 

Quá nhiều định nghĩa về vị trí này của anh, nhưng tôi thích gọi vị trí này của anh bằng một khái niệm được vay mượn từ môn bóng bầu dục nhất. Đó là “Quarterback”. Trong môn bóng bầu dục, có một vị trí tên gọi là “Quarterback”, anh ta là một cầu thủ có nhiệm vụ làm chủ nhịp độ và quan sát toàn sân, là nhạc trưởng của đội bóng, nhưng phải lùi xuống rất sâu để được bảo vệ. Bên trên anh, những cầu thủ tiền vệ khác lao tới húc nhau với đối thủ để bảo vệ cho “Quarterback”, người sẽ chuyền bóng cho một vị trí ở phía trên là “Runner Back” ghi bàn. Bởi vậy, “Quarterback” phải là người ném bóng xa chuẩn xác nhất. Ở đây, có quá nhiều điểm tương đồng với Pirlo.

Bóng đá rồi sẽ rất nhớ anh, Pirlo!
Bóng đá rồi sẽ rất nhớ anh, Pirlo!

Điều khiến Pirlo trở thành một triết lý bóng đá trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI đó là anh xuất hiện khi mà “số 10 cổ điển” vẫn còn được trọng dụng, nơi đạo diễn sân cỏ sẽ chơi sau lưng tiền đạo, thì việc Pirlo - một cầu thủ mang trong mình bộ óc đạo diễn của số 10 - được đặt ở vị trí tiền vệ trung tâm đánh chặn đã thành một sự đột phá. Với Pirlo lùi sâu, anh trở thành điểm tựa chiến thuật của cả đội, mọi sự phong tỏa phía trên hóa thành vô ích khi bên dưới vẫn còn một “bộ óc” nữa vẫn có thể triển khai lối chơi cho đội bóng. AC Milan và Italy với Pirlo lùi sâu 15m đã thu được tất cả những danh hiệu cao quý nhất của làng bóng đá thế giới trong những năm tháng cuối cùng của những “số 10 cổ điển” và chiến thuật 4-4-2.

Khi Pirlo chuyển sang Juventus, thì phát kiến của Ancelotti với Pirlo năm xưa đã được tiến hóa trở thành cặp tiền vệ đánh chặn – phát động trong sơ đồ 4-2-3-1 của bóng đá hiện đại. Tuy vậy, kẻ tiên phong năm xưa vẫn có cách để chiến thắng cho riêng mình tại đất Italy. Khi Conte đã bao bọc Pirlo không chỉ bằng một Vidal, Marchisio mà còn cả các trung vệ. Ở đó, anh tiếp tục đạo diễn cho những chiến thắng của Juventus bằng khả năng điều tiết, những đường chuyền dài, những pha chọc khe, và những bàn thắng đến từ những cú sút phạt tinh tế. Scudetto liên tiếp với Pirlo hai năm liên tiếp là cầu thủ xuất sắc nhất Calcio đã khẳng định thêm cho câu nói năm nào:  “Công thức chiến thắng đã chuyển từ Milano sang Torino”.

Pirlo mang những nét đẹp cũ kĩ

Những đường bóng của Pirlo rồi đây sẽ lãng mạn như những câu chuyện cổ. Bởi Pirlo quá giống với Riquelme, không chỉ bởi đôi mắt rất buồn của anh tương đồng với vẻ mặt khắc khổ của Riquelme, mà còn bởi họ là hiện thân của những gì cuối cùng sắp rời đi của bóng đá vị nghệ thuật, biểu tượng cho một chiến thuật sẽ mất đi trong sự tiến hóa của bóng đá hiện đại. Khi người ta không thể giao phó cả sinh mệnh đội bóng lên một cầu thủ, thì những điểm tựa của Pirlo, của Riquelme cũng giống như cái cách mà Kurt Cobain ở Nivarna- vinh quang và diệt vong gắn liền với một người, bóng đá hiện đại không muốn điều ấy.

 

Chất cổ điển của Pirlo tồn tại lâu hơn vì lùi xuống sâu hơn, được bảo vệ kĩ hơn, và vì thế anh được chậm rãi khoan thai thể hiện sự phóng túng trong trí tưởng tượng với trái bóng. Những pha bóng lãng du và êm nhẹ như mèo của Andrea Pirlo vẫn còn đó, nhưng sẽ như đóa hoa sắp tàn. Người ta ưa thích những Xabi Alonso, Toni Kroos hay Bastian Schweinsteiger biết đánh chặn hơn là tìm về những mẫu tiền vệ lãng mạn kiểu như anh. Để rồi những pha bóng như vẽ ra từ chốn xa xăm nào đó của anh bỗng chốc hóa thành cái hiếm hoi cũ kĩ. 

Trên sân cỏ, ở vị trí phía dưới vòng tròn trung tâm, anh đứng đó, tự do phóng bút vẽ nên những tuyệt tác như họa sĩ thuở Phục Hưng, thuở anh phục dậy vinh quang cho Italy sau 24 năm nhiều đau khổ, thuở anh cùng HLV Conte giúp Juventus "rũ bùn đứng dậy sáng lòa" sau bao năm bị đọa đầy vì Calciopoli. Những chiến quả của trái tim đó sẽ không còn lặp lại nữa, không chỉ vì tuổi xế chiều đầy giằng xé của anh, mà bởi anh muốn kết thúc sự nghiệp bóng đá bằng công việc của một ông chủ vườn nho Brescia. Những hư vô trống trải sẽ được gió thổi đi, chỉ còn lại chỉ những đoạn video cũ kỹ. Tóc anh vàng, còn thảm cỏ thì xanh.

Nét đẹp bóng đá của Andrea quá dịu dàng, rất dịu dàng. Anh đưa vào tim những người hâm mộ bóng đá nét thuần chất lãng mạn, chảy như suối nguồn trong vắt. Anh chuyền những đường chuyền dài hơn 30 mét cho tiền đạo mà khẽ khàng như đặt nhẹ trái banh vào tay người tình. Anh cười chiến thắng, và khóc cả khi vô địch. Nụ cười và những khổ đau rất người trên đôi mắt quá lãng mạn, nhưng không dễ bị tổn thương như Ginola, như Baggio. Anh là Pirlo, một Pirlo rất riêng. Người biết dung hòa giữa trái tim nóng và cái đầu lạnh. Người có thể khóc khi nhìn Grosso chạy đà tại Berlin 8 năm về trước, nhưng cũng có thể lạnh lùng “xúc thìa” kể khi đội nhà đang bị dẫn cũng ở một loạt penalty khác.

Pirlo dang dở, vì dang dở mà đẹp

Điều khiến người hâm mộ nuối tiếc nhất về anh không phải là những danh hiệu tập thể, mà là những danh hiệu cá nhân cùng một sự tôn vinh xứng đáng cho anh. Trong những năm tháng vinh quang của Milan, anh là “kiến trúc sử” trong công trình chiến thắng ấy, nhưng lùi quá sâu để vinh quang không rọi tới. Vào ngày anh rời Milan, Goal đã điểm lại 10 sự kiện lớn nhất mà Pirlo làm cho Rossonerri, trong đó có cú sút phạt đập vai Inzaghi vào lưới Liverpool ở trận chung kết Champions League 2006-2007. Bàn thắng ấy là một hình ảnh tượng trưng cho những gì Pirlo làm ở Milan, người lặng thầm phía sau nụ cười ăn mừng của đồng đội. Anh không được tôn vinh, dù là người gieo vinh quang.

Một điều đáng tiếc nữa cho Andrea là trong khoảng thời gian anh gánh sứ mệnh dẫn dắt Azzurri, những điều anh làm được đều vượt trội so với các tiền bối đi trước. Với anh là trái tim, trong vòng 6 năm, Italy hai lần vào chung kết, trong đó có một lần vô địch. Giải đấu nào anh cũng ba lần được bình chọn là “Man of the match”, cao nhất trong tất cả các ứng viên, nhưng đổi lại luôn là nụ cười buồn trong đêm trao giải cá nhân. Hai giải đấu Italy thất bại (Euro 2008 và World Cup 2010), đều có một điểm chung: Pirlo vắng mặt trong trận then chốt. Người đàn ông thầm lặng này đã làm được quá nhiều so với những gì mà anh được nhận. Nhưng anh sắp giã từ, còn người hâm mộ đợi mãi. Anh gieo vào bóng đá những nét đẹp sững sờ, nhưng một danh hiệu cá nhân, dù chỉ là Quả bóng đồng, cũng rời bỏ anh. 

Pirlo là nạn nhân của sự hào nhoáng trong bóng đá, nơi những bóng dáng lặng thầm như anh không được chú ý nhiều bằng những cầu thủ ghi bàn. Và đến một ngày anh đi, anh sẽ như ngôi sao sa của bầu trời bóng đá Italy. Dư âm của ngôi sao ấy còn vọng mãi về sau. Về một đôi mắt buồn, gầy gò gồng gánh cả một đoàn quân điêu tàn, một mái tóc dài không chải, những pha bóng tài hoa, lãng tử, đượm nét u hoài. Một dòng sông ra đi chẳng bao giờ trở lại.

 

(Theo TT&VH)

Có thể bạn quan tâm

Video

Xem thêm
top-arrow
X